Wednesday, January 18, 2017

JANNA

CƠN THNH N CA BÃO T

Sở hữu sức mạnh bão tố của Runeterra, Janna là một tinh linh gió đầy bí ẩn bảo vệ cho những con người khốn cùng ở Zaun. Nhiều người tin rằng cô có mặt trên trần thế theo lời thỉnh cầu của các thủy thủ mong mỏi cơn gió thuận khi băng qua vùng nước đầy bất trắc và bão dông. Kể từ đó, lòng tốt và sự bảo hộ của cô được kêu gọi từ thẳm sâu đất Zaun, nơi Janna trở thành biểu tượng cho hy vọng với những ai cần đến. Không người nào biết cô sẽ xuất hiện và ở đâu, nhưng thường thì, cô luôn đến để giúp đỡ.

Nhiều thủy thủ Runeterra có thói mê tín kỳ lạ, chẳng lạ gì khi họ luôn phải liều mình trước thời tiết bất thường. Có thuyền trưởng quả quyết phải đổ muối lên sàn để biển không nhận ra họ từ đất liền tới. Kẻ khác thì chắc chắn phải ném con cá đầu tiên bắt được xuống nước để tỏ lòng nhân từ. Không có gì đáng ngạc nhiên, hầu hết họ đều khẩn nài gió đều, biển lặng, và trời trong.

Nhiều người tin rằng tinh linh Janna được sinh ra từ những lời nguyện ấy.




Cô khởi đầu thật khiêm tốn. Các nhà hải hành đôi khi phát hiện ra một chú chim màu lam sáng rực ngay trước khi ngọn gió mát lành tràn ngập cánh buồm. Những người khác thề rằng họ đã nghe thấy tiếng huýt sáo trong không trung ngay trước cơn bão, như thể cảnh báo họ về điều sắp tới. Tin đồn về điềm lành cứ thế lan truyền, và người ta cũng nhìn thấy chú chim kia thường xuyên hơn. Có kẻ thề rằng đã thấy con vật biến hình thành một phụ nữ. Đôi tai nhọn, suối tóc bồng bềnh, cô gái thần bí này được tả là lơ lửng trên mặt nước và điều hướng cơn gió nhờ cây quyền trượng.




Các nhà hải hành lập ra những bàn thờ nhỏ từ xương sẻ biển và vỏ xò gắn quanh mũi thuyền. Những con tàu giàu có hơn thì tạc hình đầu người trên cột buồm, hy vọng cách thể hiện lòng tin đầy phô trương này sẽ cho họ luồng khí lưu thuận lợi nhất.

Cuối cùng, thủy thủ ở Runeterra đồng ý với cái tên của tinh linh gió này: “Janna,” một từ Shurima cổ mang nghĩa “người canh gác.” Càng có thêm thủy thủ tin vào Janna và dâng tế phẩm để cầu xin ân huệ, cô càng mạnh mẽ hơn. Janna giúp các nhà thám hiểm đi qua vùng nước mới, đưa thuyền bè ra khỏi rặng đá ngầm nguy hiểm, và – trong những đêm không trăng – bao bọc quanh vai người thủy thủ nhớ nhà bằng làn gió ấm áp. Những kẻ ra khơi với ý đồ xấu – hải tặc, cướp bóc, và tương tự - Janna đôi khi được đồn là đã hất chúng văng khỏi hải trình bằng những cơn dông bão bất chợt.

Janna rất vui thích với công việc của mình. Dù là giúp đỡ người khác hay trừng phạt những kẻ đáng bị vậy, cô cũng thấy hạnh phúc khi coi sóc các đại dương ở Runeterra.




Từ rất lâu rồi, một eo đất đã chia đôi đại dương phía đông và phía tây Valoran. Để di chuyển từ tây sang đông, hoặc ngược lại, thuyền bè phải đối mặt với những vùng nước nguy hiểm khó lường ở mũi phía nam lục địa. Hầu hết thủy thủ đều dâng lễ vật cho Janna để đổi lấy ngọn gió mạnh mẽ hỗ trợ họ trên hành trình quanh bờ biển lởm chởm đá.  

Những người điều hành thành phố thương mại sầm uất bên bờ eo đất đã phát mệt khi nhìn từng đoàn thuyền làm một chuyến đi dài dằng dặc qua phias nam lục địa, thường phải mất nhiều tháng. Họ thuê những khoa học gia xuất sắc nhất để dùng nguồn tài nguyên hóa chất dồi dào mới được khám phá trong vùng nhằm tạo ra một con đường khổng lồ nối liên các biển lớn ở Valoran.

Tin tức về con kênh này lan nhanh trong giới thủy thủ. Lối đi đó sẽ mở ra những cơ hội giao thương không giới hạn, cho phép những chuyến đi dễ dàng hơn, giảm thiểu thời gian hải hành và mở đầu cho việc vận chuyển hàng hóa dễ hỏng. Nó sẽ đưa đông đến với tây, tây lại với đông, và trên hết, nó đem tới thay đổi.

Nếu có con kênh, các thủy thủ sẽ không cần gió từ Janna để giữ thuyền an toàn đi qua những vách đá của Valoran. Họ chẳng cần lập bàn thờ hay nhìn ra chân trời mờ mịt tìm bóng những chú chim xanh. Sự an toàn và tốc độ của con thuyền không còn phụ thuộc vào một vị thần khó đoán, mà vào tài khéo léo của con người. Do đó, khi công cuộc xây dựng tiến triển suốt nhiều thập kỷ, Janna mờ nhạt dần. Điện thờ đổ nát, bị hải âu tha mất, và hiếm khi tên cô được nhắc đến, kể cả khi con nước biến động hơn vào mùa đông.

Janna thấy mình yếu đi, quyền năng của cô dần biến mất. Khi cô triệu hồi cơn cuồng phong, cô chỉ gọi ra được một làn gió thoảng. Nếu biến thành dạng chim, cô chỉ bay được vài phút trước khi phải nghỉ ngơi. Mới vài năm trước, cô quan trọng biết bao với những người đi biển – họ quên đi người giữ họ an toàn và vinh danh những lời nguyện cầu của họ mới dễ dàng làm sao? Janna buồn bã khi dần dần lụi tàn vào quên lãng, và khi con kênh hoàn thiện, tất cả những gì còn lại trong cô tan biến.



.
Buổi khai trương con kênh thật náo nhiệt. Hàng ngàn thiết bị hóa-kỹ được đặt khắp eo đất. Những người điều hành thành phố tụ tập lại cho lễ châm ngòi trong lúc khách lữ hành khắp thế giới ngóng chờ, với nụ cười trên môi và tự hào trong tim.

Thiết bị nổ kích hoạt. Gói hóa chất từ đá nóng chảy tỏa ra. Tiếng nổ vang vọng khắp eo đất.Mặt vách đá bắt đầu nứt ra. Đất bắt đầu rung chuyển. Những người tập hợp nghe tiếng nước gầm và khí ga phun xì xì. Đó là lúc tiếng la hét vang lên.

Trong những năm sau, không ai biết chính xác nguyên nhân thảm họa. Có người nói đó là do sự bất ổn của bom hóa-kỹ, người khác thì bảo đó là do tính toán sai lầm của các kỹ sư. Dù gì đi nữa, vụ nổ cũng tạo ra phản ứng động đất dây chuyền làm rung chuyển eo đất đến tận nền móng. Cả quận đổ sụp xuống đại dương, và gần nửa số cư dân thành phố chợt thấy mình phải đấu tranh giành mạng sống khi dòng thủy lưu đông tây đụng đầu.

Hàng ngàn người chìm dưới cơn sóng triều, họ van xin giúp đỡ, cầu nguyện cứu cánh. Họ cất lên cái tên, cho đến gần đây, trái tim họ luôn nhớ tới mỗi lúc biển sâu trỗi dậy: 

 "JANNA " !!!!

Những lời cầu khẩn tha thiết dấy lên mạnh mẽ, và Janna được vật chất hóa với sức mạnh vĩ đại hơn nhiều lần trước đây.

Phần đông người chìm dưới nước đã chết đuối, nhưng khi đám mây hóa-khí độc hại rò rỉ ra phố, khiến hàng trăm người không may hít phải nghẹt thở, Janna biết cách giúp họ.

Cô biến mất trong màn khí đang bao trùm những nạn nhân bất lực trong ngày con kênh vĩ đại ra đời. Giơ cao quyền trượng, cô nhắm mắt lại khi gió cuộn tròn xung quanh, lốc xoáy mạnh mẽ đến mức những người triệu hồi cô sợ rằng họ sẽ bị nuốt chửng hay xé tan thành mảnh vụn. Cây trượng của cô sáng rực ánh xanh cho đến khi cô dộng nó xuống, xua tan màn hơi độc bằng một pha bùng nổ không khí mạnh mẽ. Mọi người hô hấp lại bình thường và ngước nhìn cô gái đã cứu sống họ, thề sẽ không bao giờ quên cô một lần nào nữa.





Một cơn gió thổi qua đường phố, và Janna biến mất… dù có người thề rằng họ đã thấy một con chim xanh làm tổ trên tòa tháp bằng sắt thép và kính màu cao ngất trên thành phố.

Nhiều năm sau khi thành phố mang tên Zaun được sửa sang và thành phố rực rỡ Piltover được xây dựng trên đó, cái tên của Janna vẫn tồn tại trong vô số câu chuyện kể về tinh linh gió lãng du xuất hiện khi ai đó cần đến. Lúc Zaun Xám dày thêm, có người bảo Janna thổi tan nó đi, rồi biến mất nhanh như khi đến. Khi thủ hạ một Hóa-Chủ đi quá xa hay tiếng kêu than của một nạn nhân không được đáp lại, một cơn cuồng phong đáng sợ có thể quét qua con hẻm và giúp người mà những người khác không sẵn lòng giúp.

Có người nói Janna là một thần thoại: một câu chuyện cổ tích đầy lạc quan đem lại chút hy vọng cho những người tuyệt vọng nhất Zaun khi họ cần. Những người khác – những người nghĩ đến Janna khi gió thổi qua khe hẹp hay quấn quanh điện thờ tự tay làm – biết rõ hơn nhiều. Khi gió thổi tung quần áo đang phơi, chắc chắn Janna đang hiện diện trong không khí. Mỗi Ngày Tiến Bộ, không cần biết thời tiết lạnh lẽo ra sao, các tín đồ vẫn mở tung cửa để Janna có thể xua đi không khí cũ kỹ của năm ngoái và chào đón luồng gió mới. Cả những ai hoài nghi nhất cũng thấy tinh thần nhẹ nhõm khi bắt gặp một con chim xanh đập cánh bay qua đường phố Zaun. Dù không ai biết chắc khi nào, làm sao, hay liệu Janna có xuất hiện hay không, nhưng hầu hết mọi người đều đồng tình với một điều: thật hay khi có ai đó trông chừng cho bạn.




HÍT SÂU



Họ nghĩ Zaun là nơi những kẻ thua cuộc sinh sống.

Họ không thừa nhận, tất nhiên rồi – họ sẽ cười toe toét, đập vào lưng chúng ta và bảo Piltover chẳng là gì nếu không có Zaun. Những con người chăm chỉ của chúng ta! Nền thương mại sầm uất của chúng ta! Đồ hóa-kỹ của chúng ta, cái ai ở Piltover cũng tỏ vẻ là không mua, ngoại trừ việc họ mua liên tục! Zaun là một phần thiết yếu trong văn hóa Piltover, họ sẽ nói vậy đấy.

Tất cả đều dối trá. Hiển nhiên.

Họ nghĩ Zaun là nơi lũ ngốc tới. Những kẻ quá đần độn để bước vào những tòa tháp vàng của Piltover.

Những kẻ như tôi...

Tôi dành nhiều tháng học hỏi để có thể đăng ký thực tập trong Gia tộc Holloran. Tôi đã sục sạo mọi quyển sách rách nát tìm được trong xưởng máy. Tôi đã tạo ra mẫu thử một loại vòng tay giúp những ai bị gãy hoặc viêm khớp cổ tay nâng cao tính cơ động. Tôi đã làm mọi điều có thể để giành quyền thực tập ở Piltover. Tôi thậm chí còn đạt đến bước cuối trong quá trình kiểm tra: gặp gỡ mặt-đối-mặt với chính Boswell Holloran.

Họ nói đó chỉ là thủ tục. Chỉ là một cách để chào đón tôi đến với gia đình.
Ông bước vào phòng, nhìn xuống bộ quần áo dính đầy Zaun Xám, và cất tiếng cười lạnh lẽo. ông ta nói, “Rất tiếc, chàng trai – ở đây chúng tôi không nhận chuột-hầm.”
Ông thậm chí còn chẳng ngồi xuống.

Nên giờ tôi quay lại đây. Ở Zaun. Lại một tên ngốc nữa...

Mây Xám lảng bảng trên phố, mừng tôi trở về. Hầu hết thời gian, nó đủ mỏng để bạn hít sâu mà không ho ra thứ gì đó ướt ướt. Nhưng hôm nay, đây là thứ chúng tôi gọi là Xuất Xám. Bạn nghẹn họng sau mỗi lần ho hấp. Ngực bạn thắt lại. Không thể thấy gì ngoài mấy đầu ngón tay. Tôi muốn chạy, nhưng tôi biết chẳng có nơi nào để chạy tới. Mây Xám như đang xáp lại, nghiền nát tôi, bóp nghẹt tôi.

Đó là lúc tôi cầu nguyện Janna.

Không phải ai ở Zaun cũng tin cô có thật, nhưng mẹ tôi luôn giữ vững tín ngưỡng. Bà bảo tôi một con chim xanh bay ngoài cửa sổ trong ngày tôi sinh ra, và bà biết – bà biết – đó là Janna nói với bà rằng tôi sẽ ổn thôi.

Tất nhiên bà đã nhầm. Sau cùng thì tôi không ổn chút nào. Hai năm trước, bà – mẹ tôi – đã chết trong lúc lùng phế liệu, và tôi phải tự nuôi sống bản thân nhờ vài thiết bị bà để lồi. Rồi, như thường lệ: không có bạn bè. Bị đập vô số lần. Cố gắng học, cố gắng nghĩ cách lên Piltover. Không làm được. Nhận ra Janna đã quên mất tôi.

Những tôi vẫn giữ tấm bùa mẹ cho: một mảnh gỗ khắc hình chú chim bà đã thấy. Đề phòng những trường hợp thế này.

Nên tôi ngồi trên nền đất ẩm bởi tôi không cần tìm ghế, và tôi lấy tấm bùa chim xanh luôn nhét trong túi ra, nói chuyện với Janna.

Tất nhiên không nói to – chẳng cần để người khác nghĩ tôi là đồ quái dị bị hóa chất đầu độc – nhưng vẫn là nói chuyện.

Tôi không đòi hỏi cô ấy điều gì. Chỉ kể về ngày hôm nay và ngày trước đó. Về cảm xúc lo sợ khi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ trở thành người có giá trị và sẽ chết ở tận đáy Hầm Thấp mà chẳng thể hiện được gì trước mẹ. Đôi khi tôi chỉ muốn chạy đến nơi nào dễ hít thở và không còn thấy chết khiếp hay phát khóc bất kỳ lúc nào và tôi ghét bản thân ra sao khi muốn khóc vì không được như người khác. Đôi khi tôi nghĩ đến việc gieo mình xuống vũng hóa chất trong Hầm Thấp, cứ gieo mình và chìm xuống tận đáy đến khi phổi ngập chất dịch. Ít nhất thế là kết thúc. Tôi bảo Janna tôi hy vọng cô ấy ổn. Tôi hy vọng cô ấy hạnh phúc dù đang ở đâu.

Đó là khi tôi thấy gió mơn man gò má. Chỉ thoảng nhẹ, nhưng vẫn có. Rất nhanh, tôi cảm thấy nó thổi tóc bay lòa xòa trên mặt. Gió rít nhanh và mạnh, tung áo choàng ngoài của tôi bay phần phật như thể tôi đang đứng giữa tâm bao.

Mây Xám cuộn lên phía trước, bị xua đi bởi cơn gió dường như đến từ khắp mọi nơi. Màn sương dần tan biến, và tôi có thể thấy những người qua lại ở Tầng Xép ngắm nhìn nó trôi đi.

Gió ngừng.

Mây Xám biến sạch.

Tôi có thể thở được.

Không phải những hơi thở gấp gáp đầy thận trọng, mà có thể hít đầy phổi làn không khí mát lành. Không còn bị Mây Xám bao bọc, mặt trời chiếu qua các tòa tháp ở Piltover xuống tới tận Zaun.

Tôi có thể thấy dân Piltover bên trên ngó xuống chúng tôi. Không có Mây Xám che khuất tầm nhìn, họ có thể thấy chúng tôi từ trên cầu và ban công. Tôi không nghĩ họ thích điều đó lắm đâu. Không ai muốn bị nhắc rằng mình sống bên trên một khu ổ chuột; tôi thấy vài cái quắc mắt đe dọa.

Tôi lại thấy ông ta: Boswell Holloran. Cầm bánh ngọt trên tay, lại nhìn xuống tôi. Biểu cảm ghê tởm trên khuôn mặt, y như trước đây.

Tôi quá bận nhìn vẻ mặt khinh thị ấy đến nỗi không nhận ra có người đứng sau đến khi tay cô đặt lên vai tôi.

“Ổn rồi,” cô nói, tôi biết đó là ai mà không cần ngoảnh lại.

Cô xiết chặt vai tôi, rồi khuỵu gối xuống và vòng tay trước ngực tôi, ôm chặt.

“Sẽ ổn thôi,” cô nói.

Tóc cô phủ lên vai tôi. Mùi hương như không khí sau cơn mưa dài.

“Giờ thì có thể không ổn. Em có thể không ổn một thời gian nữa. Chẳng sao cả. Một ngày, không rõ khi nào, tại sao hay làm thế nào nó xảy ra, em sẽ thấy hạnh phúc,” cô nói. Cảm giác ấm áp vuốt nhẹ khuôn mặt, tôi không biết mình bật khóc từ bao giờ, nhưng nó thật nhẹ nhõm, như mây mù đã tan. Tôi cầm tay cô và cô cầm tay tôi, cứ nhắc đi nhắc lại rằng mọi chuyện sẽ ổn, cô đang ở đây, mọi chuyện sẽ tốt hơn.

Tôi không biết đã trải qua bao lâu, nhưng rất nhanh tôi thấy mọi người ở Tầng Xép của Zaun và ban công của Piltover phía trên đang nhìn chằm chằm.

Trước khi tôi kịp cất lời, cô nói, “Đừng để ý họ. Cứ lo cho em thôi. Em sẽ làm điều đó vì chị chứ?”
                                             
Tôi cố nói, nhưng chỉ biết gật đầu.

“Cảm ơn,” tôi nói, và cô hôn lên gò má đẫm lệ của tôi, ôm tôi một lần nữa.

Cô đứng dậy, sải bước đi qua tôi. Lần đầu tiên tôi thấy cô hoàn toàn – dáng người cao, siêu thực đến nỗi tôi đã cho đó là tưởng tượng nếu cô không vừa chạm vào tôi. Tôi nhìn được đôi tai dài nhọn. Đôi chân không chạm đất. Tóc tung bay trong gió, dù hiện giờ chẳng có chút gió nào. Đôi mắt xanh thẳm đến nỗi tôi cảm thấy hơi lạnh khi nhìn vào đấy.

Rồi cô mỉm cười, nháy mắt và nói, “Chị muốn em chiêm ngưỡng cảnh tiếp theo.”




Một cơn cuồng phong dữ dội nổi lên, mạnh đến mức tôi phải che mắt. Khi tôi mở mắt ra lần nữa, cô đã đi mất, nhưng gió vẫn thổi. Nó thổi về hướng Piltover và những cư dân rụt rè tại đó.

Gió rít lên khi tăng dần tốc độ và cường độ. Dân Piltover chạy đi tìm chỗ nấp nhưng đã quá trễ, luồng khí lưu toàn lực quất vào họ, giật áo khoác họ tung lên trời và làm đầu tóc họ rối bù. Boswell Holloran la thất thanh khi gió quật ông ta khỏi ban công.

Cứ tưởng ông ta chết chắc, nhưng một cơn gió khác đã phóng tới, làm giảm đáng kể sức rơi, như thể đang dẫn dắt ông ta chạm đất. Dù vậy, chỉ nhìn vào ông ta thì bạn sẽ không biết được đâu. Thậm chí khi rơi với vận tốc của một chiếc lá lìa cành, ông ta vẫn cuống cuồng gào thét. Giọng cao ghê gớm. Mất phẩm giá cũng ghê gớm luôn.

Quần áo lật tung lên, đập vào mặt ông ta trên đường rơi, cho đến khi ông ta lơ lửng cách vũng nước vài phân.

“Ta…,” ông ta mở miệng, trước khi cơn gió tan biến và ông ta ngã dập mông xuống vũng nước, làm hỏng một thứ tôi cho là rất đắt giá. ông ta kêu la trong sự pha trộn giữa ngạc nhiên, đau đớn, và cáu giận, phủi phủi khắp nơi như một đứa trẻ nổi đóa. ông ta cố đứng lên, nhưng trượt chân và ngã thêm vài lần nữa. Tôi phải hoàn toàn thành thực, trông ông ta trông giống một gã ngốc. 

Tôi chẳng thể ngừng cười.





~the end~








Sunday, January 15, 2017

SHURIMA


Đế chế Runeterra đã từng là một nền văn minh phồn thịnh cư ngụ trên một sa mạc bao la. Sau một thời kỳ phát triển và thịnh vượng, sự sụp đổ của thủ đô vùng đất này đã hủy diệt cả đế chế. Sau hàng thiên nhiên kỷ, những câu chuyện về thành phố Shurima huy hoàng trở thành những huyền thoại và tôn giáo cho hậu thế của những người còn sống sót.




CHƯƠNG I : Azir - Xerath

Air một hoàng đế của Shurima từ một thời đại xa xăm, một kẻ kiêu hãnh đứng trên đỉnh của sự bất tử. Thói ngạo mạn đã khiến ngài bị phản bội và sát hại đúng thời khắc đắc thắng nhất, nhưng giờ, hàng thiên niên kỷ sau, ngài đã tái sinh thành Thể Thăng Hoa đầy sức mạnh. Khi thành phố bị chôn vùi trỗi dậy từ lòng cát, Azir tìm cách phục hồi Shurima hưng thịnh trước đây.

Nhiều nghìn năm trước, đế chế Shurima là một đất nước rộng lớn với vô số chư hầu bị đội quân của các chiến binh Thăng Hoa bất bại chinh phục. Được cai trị bởi là một hoàng đế đầy tham vọng và khao khát quyền lực, Shurima là thế lực vĩ đại nhất thời đó; một vùng đất màu mỡ ngập tràn phước lành của mặt trời tỏa sáng từ đĩa vàng khổng lồ trên đỉnh điện thờ giữa trung tâm kinh đô.



Là hoàng tử trẻ và ít được sủng ái nhất, Azir vốn chẳng được định sẽ trở thành vĩ nhân. Ngài không thể lên ngôi khi phía trước còn biết bao anh em khác. Thường thì ngài sẽ nhận một vị trí trong giới tu sĩ hoặc quản lý một tỉnh khỉ ho cò gáy nào đó. Cậu bé cao gầy hiếu học này dành nhiều thời gian nghiền ngẫm trong Đại Thư Viện Nasus hơn là rèn luyện chiến đấu dưới sự hướng dẫn hà khắc của anh hùng Thăng Hoa, Renekton.

Giữa hàng hàng lớp lớp kệ sách, Azir  gặp một cậu nô lệ hay lui tới thư viện để tìm những tựa sách ông chủ cậu ta muốn và, dù biết có nguy cơ mất mạng khi nói chuyện với hoàng tộc, cậu bé vẫn dừng lại để giúp vị hoàng tử trẻ với những cấu trúc ngữ pháp phức tạp kia. Đúng thời khắc đó, tình bạn đã chớm nở, và ngày càng bền chặt hơn trong những tháng tiếp theo. 





Vốn là một nô lệ vô danh ở Shurima hàng ngàn năm trước. Con của một học giả bị tù đày, cuộc đời trước mắt cậu chỉ có những tháng năm phục dịch dài dằng dặc. Mẹ dạy cậu biết mặt chữ và mặt số, trong khi cha kể cho cậu truyện kể về lịch sử, hy vọng những kỹ năng này sẽ giúp cậu có một cuộc sống tốt hơn. Cậu bé thề sẽ không sống cúi mình chịu đựng roi vọt như bao nô lệ khác.

Khi cha cậu bị thương trong lúc đào móng cho đài kỷ niệm con chiến mã yêu thích của Hoàng Đế, ông bị bỏ mặc đến khi chết. Sợ con trai sẽ gặp số phận tương tự, mẹ cậu bé cầu xin vị kiến trúc sư xây hầm mộ dẫn cậu theo làm học việc. Ban đầu ông miễn cưỡng chấp nhận, nhưng rất nhanh đã thấy ấn tượng trước sự tỉ mỉ và kiến thức của cậu bé về toán học và ngôn ngữ. Cậu bé không bao giờ còn gặp lại mẹ nữa.

 Nô lệ ở Shurima không được phép có tên, nhưng khi cả hai trở nên thân thiết, Azir phá luật và gọi cậu ta là Xerath, nghĩa là ‘người chia sẻ.’ Ngài chỉ định Xerath – dù rất cẩn trọng không bao giờ gọi tên cậu ta một cách công khai – là nô lệ riêng của mình. Azir sắp xếp để Xerath được làm nô lệ riêng, và biến cậu thành phụ tá. Họ cùng chia sẻ đam mê với kiến thức, ngấu nghiến từng cuốn sách trong thư viện và gần gũi chẳng khác nào anh em. Xerath là bạn đồng hành trung thành của Azir, học hỏi tất cả từ văn hóa, sức mạnh và tri thức. Cuối cùng, cậu đã dám mơ đến một ngày Azir sẽ trả tự do cho mình. Cả hai cùng chia sẻ tình yêu với lịch sử qua việc học hỏi mọi điều có thể về Shurima trong quá khứ và di sản trường tồn của các Thể Thăng Hoa.




Trong chuyến tuần du hàng năm với cha, các anh và Renekton, đoàn của Azir dừng chân nghỉ đêm tại một ốc đảo nổi tiếng. Đôi bạn thân lén ra ngoài để quan sát trời sao và vẽ nên bản đồ thiên văn của riêng mình, bổ sung cho những gì đã nghiên cứu trong Đại Thư Viện. Trong lúc đó, đoàn bị tấn công bởi một đội thích khách do kẻ thù cử đến. Một gã sát thủ tìm thấy hai cậu bé giữa sa mạc. Chút nữa là hắn làm hại đến Azir nếu Xerath không can thiệp bằng một cú húc từ sau lưng.




 Chớp thời cơ, Azir đâm con dao găm ngập vào người tên ám sát. Azir nhặt thanh kiếm của kẻ vừa bị hạ lên và chạy như bay về ốc đảo. Đến lúc đó, địch đã bị đánh bại. Renekton tiêu diệt toàn bộ đội thích khách, bảo vệ được hoàng đế, song các anh em của Azir thì không may mắn như vậy. Azir kể cho phụ vương Xerath đã can đảm ra sao và xin ban thưởng, nhưng chỉ hoài công. Trong mắt hoàng đế, Xerath chỉ là một nô lệ hèn mọn chẳng đáng để mắt. Tuy nhiên, Azir thề rằng một ngày ngài và cậu ta sẽ trở thành anh em. Sau cuộc hành thích, Hoàng đế quay lại kinh đô, nơi cậu bé mười lăm tuổi Azir giờ là người thừa kế. Cha ngài tiến hành một chiến dịch đẫm máu chống lại những kẻ ông tin là đã cử sát thủ đến.

Shurima chìm trong nhiều năm hỗn loạn và tàn sát khi đấng chí tôn tìm cách báo thù bất kỳ ai bị nghi là bội phản. Xerath biết đủ về lịch sử và hoạt động của triều đình Shurima để hiểu rằng tính mạng Azir chỉ như chỉ mành treo chuông. Người kế vị ngai vàng chẳng là gì cả, bởi hoàng đế căm ghét Azir khi ngài sống còn những anh em được sủng ái khác thiệt mạng. Nguy hiểm hơn, hoàng hậu vẫn còn trẻ và vẫn có thể sinh con. Khi một hoàng tử khác ra đời, Azir coi như cầm chắc cái chết. Dù Azir vốn là một học giả, Xerath vẫn thuyết phục ngài rằng, để sống sót, ngài phải học cách chiến đấu. Azir làm theo , bởi cuộc tấn công trên ốc đảo đã cho thấy kiến thức ít ỏi của ngài về môn nghệ thuật chết chóc này. Renekton lãnh trách nhiệm dạy dỗ thái tử, nhờ đó, Azir học được cách sử dụng kiếm giáo, chỉ huy chiến binh, và đọc cục diện trận chiến, đổi lại ngài bảo Xerath phải tiếp tục học hỏi những gì còn dang dở. Cả hai đều tỏ ra vượt trội, và Xerath sớm cho thấy mình là một học sinh xuất sắc, tận hưởng mọi kiến thức thu được. Xerath trở thành cánh tay phải của Azir, một vị trí chưa từng có đối với một nô lệ. Vị trí này cho cậu tầm ảnh hưởng cực lớn – thậm chí là thái quá – đối với hoàng tử trẻ, người càng ngày càng tin tưởng đánh giá của Xerath.




 Xerath dùng mọi nỗ lực để tìm kiếm tri thức ở mọi nơi, bằng bất kỳ giá nào, từ bất kỳ nguồn nào. Cậu mở khóa những thư viện bị niêm phong, lùng sục những kho tàng bị quên lãng và truy tầm những điều thần bí ẩn sâu dưới lớp cát; tất cả chỉ để tăng thêm hiểu biết, và cả tham vọng. Mỗi khi lời đồn đại trong triều về công việc của cậu trở nên quá lớn, Xerath sẽ khéo léo tìm ra cách làm họ im miệng. Với Xerath, việc Azir không bao giờ nhắc đến chuyện này được xem như là một lời chấp thuận ngấm ngầm. Năm tháng trôi qua, Xerath ngày càng dấn sâu vào bóng tối. Hắn sử dụng khả năng ma pháp của mình để ngăn hoàng hậu hạ sinh thành công. Không có đối thủ tranh chấp ngai vàng, Azir sẽ được an toàn. Khi tin đồn về một lời nguyền nổi lên, Xerath sẽ đảm bảo chúng không bao giờ còn lan truyền nữa, và ai mang trong mình mối nghi ngờ đều biến mất không dấu tích. Đến lúc đó, khao khát thoát khỏi xiềng xích nô lệ của Xerath đã trở thành tham vọng cháy bỏng đạt được quyền lực, dù hắn tự bao biện rằng mỗi hành động sát nhân kia chỉ là để giữ cho bằng hữu sống sót.

Mặc cho mọi cố gắng của Xerath, một hoàng tử mới vẫn ra đời. Ngay trong đêm đó, Xerath dùng hết ma lực để triệu hồi các nguyên tố tinh linh ẩn sâu trong sa mạc và tạo ra một cơn bão khủng khiếp. Sấm sét dội từng cơn xuống căn phòng của hoàng hậu, thiêu cháy cả bà lẫn đứa con mới chào đời. Hoàng đế vội vã chạy đến nơi, và bắt gặp Xerath đứng đó, hai tay rực sáng sức mạnh huyền bí. Hoàng đế phát điên vì đau buồn và tự sát khi nghe tin, song rất nhanh đã có lời đồn đại rằng xác ông cùng cận vệ được tìm thấy trên sàn cung điện, chẳng còn gì ngoài những bộ xương cháy đen. 




Xerath đổ tất cả tội lỗi cho các pháp sư của một lãnh địa đã bị chinh phục, và hành động đầu tiên khi lên ngôi của Azir là thực hiện một chiến dịch báo thù tàn bạo chống lại những kẻ đó.
Azir bị sốc trước cái chết của họ, nhưng đế chế không thể một ngày vô chủ. Với Xerath phò tá, ngài lên nắm quyền kiểm soát Shurima, Xerath đã mơ đến giờ phút này từ lâu, và mong đợi Azir chấm dứt chế độ nô lệ ở Shurima trước khi gọi hắn là anh em.

 Suốt thập kỷ tiếp theo, ngài mở rộng biên cương và trị vì bằng bàn tay khắc nghiệt mà công chính. Ngài thực hiện cải cách nhằm nâng cao đời sống nô lệ và bí mật xây dựng kế hoạch lật đổ truyền thống ngàn năm để trả tự do cho tất cả họ. Ngài không tiết lộ dự định của mình với bất kỳ ai, kể cả Xerath, bởi những rắc rối trong chế độ chiếm nô có thể trở thành nguyên nhân mối bất hòa giữa hai người. Đế chế được dựng lên trên lưng nô lệ, và nhiều đại gia tộc phụ thuộc vào việc bóc lột nô lệ để đạt được của cải và quyền lực. Những thể chế thâm căn cố đế này không thể bị xóa bỏ trong một đêm, Azir cần thời gian để kế hoạch của ngài được thấm nhuần rộng khắp. Dù rất muốn gọi Xerath là anh em, ngài không thể làm thế đến khi tất cả nô lệ trên Shurima thoát khỏi xiềng xích. Nhưng Xerath đâu biết điều ý định ấy. Azir lảng tránh những đề nghị của Xerath về việc giải phóng nô lệ. Với hắn, đây là bằng chứng nữa cho sự thối nát của Shurima, và sự thất hứa của Azir càng làm hắn điên tiết. Azir nổi giận và nhắc cho Xerath rằng hắn chỉ là một nô lệ và hắn nên nhớ vị trí của mình. 




Hôm ấy, có thứ gì đó đã chết trong lòng Xerath, nhưng hắn vẫn cúi mình chấp nhận quyết định của Azir. Trong lúc Azir tiếp tục cuộc chinh phạt, Xerath vẫn ở cạnh ngài, nhưng hắn cẩn thận sắp xếp mọi hành động để tăng tầm ảnh hưởng lên đất nước mà hắn sẽ tự mình đoạt lấy. Đây không phải việc nhỏ nhặt, và Xerath biết hắn cần thêm sức mạnh.

Xerath vẫn không ngừng bảo vệ vị hoàng đế của mình khỏi các đối thủ chính trị và dẫn dắt đế chế phát triển. Azir kết hôn và trở thành cha của nhiều đứa trẻ. Huyền thoại về Thăng Hoa của Renekton đã cho thấy một người thường có thể tự mình biến hóa mà không cần phải được các Tư Tế Mặt Trời lựa chọn. Xerath đã âm mưu đánh cắp sức mạnh Thăng Hoa. Chưa một nô lệ nào từng đặt chân lên Đĩa Mặt Trời, nên Xerath nuôi lớn sự tự đại của Hoàng đế, lấp đầy tâm trí ngài với những hình ảnh không tưởng về một đế chế trải rộng khắp thế giới mở ra trước mắt ngài viễn cảnh về một đất nước hùng cường mà thế giới chưa từng biến đến. Tuy nhiên, để đạt đến đỉnh cao đó, Xerath đã thuyết phục Azir ngài cần phải trở thành một thực thể bất khả chiến bại, một vị thần giữa loài người – một Thể Thăng Hoa.

Khi vương quốc đã hưng vượng tới tột cùng và sự bền bỉ của hắn cũng được đền đáp , Azir tuyên bố rằng ngài sẽ tiến hành nghi thức Thăng Hoa, rằng đã đến lúc ngài có được một vị trí bên cạnh Nasus và Renekton và các bậc tiền bối. Nhiều người phản đối quyết định này; nghi thức Thăng Hoa cực kỳ nguy hiểm và chỉ dành cho những ai đã sắp xa lìa trần thế, những ai đã dâng hiến sinh mạng cho Shurima và tháng năm phục vụ của họ sẽ được Thăng Hoa vinh danh. Các Tư Tế Mặt Trời mới là người chỉ thị xem ai được Thăng Hoa ban phước, chứ không phải là cuồng vọng của một hoàng đế. Không ai can gián được Azir, bởi lòng tự kiêu của ngài quá cao, và ngài đàn áp tất cả, buộc họ tuân phục bằng tra tấn và tử hình.

Ngày nghi thức diễn ra cuối cùng đã đến. Khoảnh khắc này là đây.




Chỉ một khoảnh khắc nhưng mất cả đời bày mưu tính kế. Gã vua con bù nhìn cùng đế chế tha hóa của gã rồi sẽ bị phải bị hủy diệt bởi chính thứ biểu tượng mặt trời rỗng tuếch chúng hằng thờ phụng. Chiếc chìa khóa dẫn tới sự bất tử, canh giữ cẩn mật và tồn tại như chẳng hề tồn tại, đã bị đánh cắp trước bàn dân thiên hạ. Một khoảnh khắc báo thù hoàn hảo sẽ giải phóng trọn vẹn tên nô lệ Xerath.

Chiếc mặt nạ kim loại của chủ nhân hắn vẫn toát lên vẻ vô hồn và lạnh lẽo như mọi khi, nhưng Xerath nào bận tâm, hắn cười thẳng vào gương mặt con ưng sa mạc đấy, và hắn cảm thấy thật sung sướng vì điều đó. Cả cuộc đời vừa cúc cung phục vụ từ tên vua cha điên rồ cho đến tên vua con rỗng tuếch, vừa lén lút thao túng vương quyền khống chế ngai vàng, một hành trình đày đọa hòng truy cầu những kiến thức thất lạc đã lắm lúc khiến hắn muốn khuỵu ngã – tất cả đều chỉ vì một sự giả dối lố lăng mang danh Thăng Hoa.

Hắn sẽ chẳng ngại ngần phun ra những lời cay độc đã tích tụ bấy lâu: Chúng ta sẽ Thăng Hoa, còn ngươi sẽ bị xích lại trên những tảng đá để dòng cát thời gian nuốt chửng tất cả. Không, chẳng còn và không bao giờ nữa. Những kẻ thống trị hoàng kim được chọn sẽ chẳng còn được tắm trong ánh mặt trời để phong thần nữa. Một tên nô lệ sẽ thực hiện điều này; một tên nô lệ tầm thường, một chàng trai đã từng bất hạnh thay khi lỡ tay giúp một đứa bé quý tộc thoát chết khỏi sa mạc.

Và chính vì tội lỗi này, Xerath đã bị trừng phạt bởi một lời hứa điên rồ khủng khiếp: sự tự do. Mơ mộng hão huyền. Cấm ngôn. Ngay cả nếu ý nghĩ đó dù chỉ thoáng qua trong tíc tắc, tử tội là điều hiển nhiên, bởi các Thể Thăng Hoa có thể nhìn xuyên người ngươi, đọc được những điều thầm kín nhất trong linh hồn ngươi, để moi móc ra những suy nghĩ phản bội dù chỉ là nhỏ nhất. Dẫu vậy, việc đã rồi há có thể vãn hồi, vị hoàng tử trẻ mà hắn đã cứu thoát chết khỏi vòng tay sa mạc; Azir, Mặt Trời Hoàng Kim, đã thề rằng ngài sẽ giải phóng vị cứu tinh và cũng là người bạn mới này của mình.

Một lời hứa hão huyền mãi đến tận ngày nay. Những lời lẽ ngây thơ của một đứa trẻ hàm ơn, nào có hay đến tác động khủng khiếp nó mang lại. Làm sao Azir có thể chối bỏ hàng ngàn năm luật lệ của vương triều. Làm sao ngài có thể chống lại truyền thống, chống lại vua cha, chống lại định mệnh ?

Cuối cùng vị hoàng đế trẻ tuổi sẽ phải đánh mất tất cả bởi một thệ ước bội tín.
Rồi Xerath được giáo dục và cất nhắc, dần dần thăng tiến nhanh chóng trở thành cánh tay phải của Azir – nhưng vẫn chẳng bao giờ biết đến mùi tự do. Lời hứa năm nào đã gặm nhấm mất nhân tính hắn từng sở hữu, và làm biến chất con người hắn có thể sẽ trở thành. Chối bỏ quyền lợi cơ bản nhất, quyền được sống một cuộc sống, Xerath quyết chiếm hết mọi thứ, mọi thứ đã bị tước đi khỏi hắn, mọi thứ mà hắn xứng đáng được sở hữu: đế chế, sự Thăng Hoa, và sự tự do tự tại theo đúng nghĩa nguyên thủy của nó.

Bước đi đầy kính cẩn ngay sau vị hoàng đế với hai bên hông là những quân lính bảo vệ Shurima, càng tiến đến gần Bệ Đài Thăng Hoa vĩ đại, Xerath lại càng cảm thấy bất ngờ bởi sự nhẹ nhõm chợt ùa đến. Liệu đây có phải là sự vui sướng? Phục thù mang lại vui sướng sao? Sự tác động của nó khiến hắn suýt bộc lộ cảm xúc.

Ngay khoảnh khắc đó, bộ giáp hoàng kim đầy cầu kì phía trước chợt đứng khựng lại. Gã, kẻ đã hành hạ hắn biết bao lâu nay, quay mình, rồi bước dần về phía Xerath.

Hắn biết rồi ư? Làm sao hắn có thể biết được? Thằng nhóc kiêu căng tự phụ này mà biết sao? Tên hoàng đế công chính, đạo đức giả với đôi bàn tay đẫm máu chẳng kém gì Xerath? Mà ngay cả hắn có biết, thì chuyện cũng đã rồi.

Xerath đã hối lộ, thủ tiêu, thao túng, và mưu toan cả thập kỉ – hắn thập chí còn lừa được cả hai anh em quái vật Nasus và Renekton tránh xa ra khỏi nghi lễ này – nhưng đúng là không sợ vạn nhất, chỉ sợ nhất vạn. Vị hoàng đế của Shurima, Mặt Trời Hoàng Kim, Con Cưng của Mẫu Thân Sa Mạc, người sắp được Thăng Hoa, gỡ chiếc mặt nạ để lộ đôi lông mày kiêu hãnh cùng đôi mắt tươi vui, nhìn vào người bạn tín cẩn và lâu bền nhất của mình. Ngài cất lời nói về tình anh em, tình bạn bè, về những chiến thắng gian nan và những mất mát của các gia đình, của tương lai, và cuối cùng là về… sự tự do.

Lời nói vừa thốt ra, các quân lính bên hông Xerath lập tức tiến đến và rút gươm.
Thật là hoàng đế liệu việc như thần, kế hoạch của Xerath đã bị phát hiện sao ?
Nhưng lũ binh lính ngốc nghếch lại khom người cúi chào. Chẳng phải thanh trừng, chúng đang vinh danh hắn.

Vì hắn đã được tự do.

Vị chủ nhân hắn luôn căm hờn vừa giải phóng hắn – ngài đã giải phóng tất cả. Sẽ chẳng còn tộc nhân Shurima nào phải sống trong gông cùm xiềng xích. Hành động cuối cùng của Azir khi còn là nhân loại chính là sự giải phóng cho thần dân của ngài. Hắn đã có tất cả những gì mình khao khát, nhưng sự thành công của kế hoạch dựa hoàn toàn vào cái chết của Azir và chẳng gì ngăn được hắn hành động. Quá nhiều việc đã xảy ra và Xerath cũng đã hy sinh quá nhiều để quay đầu – dù cho hắn có muốn đi chăng nữa. Những lời nói của hoàng đế xuyên qua trái tim cay đắng của Xerath, nhưng nó đã chậm một thập kỷ. Không biết đến âm mưu đó, Azir bảo các tư tế cử hành nghi thức và gọi xuống năng lượng khủng khiếp của mặt trời.

Tiếng hoan hô vang trời của đám đông bên dưới át hẳn tất cả những gì Xerath có thể thốt ra. Azir mang lại chiếc mặt nạ rồi sải bước về Bệ Đài, tất cả đều chú mục vào một sự kiện phong thần sẽ chẳng bao giờ diễn ra.

Xerath đứng trong bóng râm của chiếc Đĩa Mặt Trời đúc bằng đá tảng, biết rõ rằng số phận huy hoàng của đế chế vĩ đại này đã sắp đến hồi kết.
Đã quá trễ, người bạn của ta. Đã quá trễ, người anh em ạ. Đã quá trễ cho tất cả…
 Khi nghi thức đã đạt đến đỉnh điểm, bằng một tiếng gầm xen lẫn giữa giận dữ và đau buồn, Xerath hất văng Azir khỏi đài. Qua hàng nước mắt, hắn nhìn lần cuối người bạn của mình, không có vòng tròn cỗ ngữ bảo vệ, vị hoàng đế bị hỏa nhật nuốt chửng, cháy thành tro ngay tức khắc...

 Xerath đứng vào vị trí của Azir và ánh sáng mặt trời tràn ngập, biến đổi hắn thành Thể Thăng Hoa. Ánh sáng làm Xerath ngập tràn sức mạnh, và hắn gầm lên khi cơ thể phàm trần bắt đầu biến đổi.




Nhưng ma thuật của nghi thức vốn không dành cho Xerath, và nguồn năng lượng hùng mạnh kia không thể đổi hướng mà không gây hậu quả nghiêm trọng. Sức mạnh của nghi thức Thăng Hoa bùng nổ, tàn phá Shurima. Dân cư bị cháy thành tro, những cung điện sụp xuống thành đống đổ nát, và cát sa mạc nổi lên nuốt lấy thành phố. Giữa lúc thảm họa diễn ra, Xerath vẫn trói chặt các tư tế mặt trời bằng ma thuật, ngăn họ kết thúc nghi thức. Năng lượng chứa trong hắn quá lớn, hòa trộn cùng thuật phù thủy hắc ám để tạo nên một sức mạnh không tưởng. Càng nhiều năng lượng chảy vào, cơ thể trần tục của hắn càng biến đổi trong một luồng xoáy huyền bí.

 Đĩa Mặt Trời, thứ đã mất hàng thế kỉ để dựng nên nay tiêu biến trong khoảnh khắc bởi tham vọng của một người và thù hận đặt nhầm chỗ của một người khác. Tất cả những gì còn lại là tàn tích của kinh đô huy hoàng và vọng âm của những tiếng người dân gào thét lẫn trong gió đêm…

Khi hành động phản trắc của Xerath đã lộ ra, Renekton và Nasus vội vã đi tới trung tâm cơn bão ma thuật đang tàn phá thành phố. Họ mang theo phong ấn đang giam giữ linh hồn của ngọn lửa bất diệt. Hai anh em đến được Đài Thăng Hoa vừa đúng lúc Xerath rơi xuống khỏi vầng hào quang chết chóc đang nuốt trọn thành phố. Trước khi Pháp Sư Thăng Hoa kịp phản ứng, họ lôi tuột hắn vào trong phong ấn, trói chặt hắn bằng những sợi xích thần thánh và những dấu hiệu hùng mạnh.

Nhưng thế là chưa đủ. Khi còn là người thường Xerath đã rất mạnh rồi – kết hợp với những gì Thăng Hoa ban tặng – hắn là bất khả chiến bại. Hắn đập nát phong ấn, dù những mảnh vỡ và xiềng xích vẫn gắn chặt vào cơ thể. Renekton và Nasus cố hết sức cũng chỉ đánh ngang cơ hắn. Trận chiến tàn khốc diễn ra giữa lúc thành phố đang sụp đổ. Hai anh em dụ được Xerath đến gần Lăng Tẩm Các Hoàng Đế, hầm mộ lớn nhất Shurima, một nơi không ai có thể phá vỡ và chỉ đáp trả dòng máu của các hoàng đế. 




Renekton lôi Xerath vào trong và bảo Nasus đóng nó lại. Nasus làm theo với trái tim trĩu nặng, ông biết rằng đó là cách duy nhất ngăn Xerath trốn thoát. Renekton và Xerath cùng rơi vào bóng tối vĩnh hằng, và kẹt lại đó trong một cuộc đấu kéo dài vô tận…