Monday, December 26, 2016

IVERN Thụ Thần Thân Thiện


CÂY LIU THN

Ivern Bramblefoot, được nhiều người biết đến với cái tên Thụ Thần Thân Thiện là một sinh vật kỳ lạ nửa người nửa cây lãng du khắp các khu rừng ở Runeterra, gieo mầm sự sống ở mỗi nơi ông ghé qua. Ông biết những bí mật của thiên nhiên, và kết tình bằng hữu với tất cả những gì sinh trưởng, bay lượn, hay chạy nhảy. Ivern đi giữa chốn hoang dã, truyền đạt tri thức cho bất kỳ ai ông gặp, làm tươi tốt thêm những cánh rừng, và đôi khi gửi gắm bí mật cho những chú bướm ngây thơ.

Những ngày đầu của Freljord, Ivern là một chiến binh cuồng bạo với ý chí sắt đá và lòng kiên định không gì lay chuyển nổi. Tuy nhiên, ông không đủ sức mạnh chống lại tộc Iceborn – những kẻ chỉ coi Ivern cùng đồng loại là đám phàm nhân bất hạnh dám thách thức chúng. Cùng họ hàng, ông âm mưu lật đổ lũ chủ nhân phù thủy này. Ivern Tàn Bạo và quân đoàn dạn dày chinh chiến dưới quyền giương buồm từ hải cảng băng giá của Frostguard tới vùng đất xa xôi được truyền tụng là nguồn gốc của mọi ma thuật. Nếu Ivern giành được quyền năng ấy cho riêng mình, ông có thể đánh bại tộc Iceborn. Khi hạm đội khuất dần nơi chân trời, họ trôi khỏi ký ức và đi vào thần thoại, bởi không ai thấy họ nữa, và nhạt nhòa dần trong lịch sử Freljord như dấu chân trong gió tuyết mùa đông.
Đại dương kiên trì từ chối mục tiêu cao quý của họ bằng những con sóng cao ngất, làm lung lay quyết tâm của những con người kiên cường nhất. Ivern, sau khi thanh trừng nhiều kẻ hèn nhát bằng thanh kiếm của mình, đã đổ bộ lên bờ biển Ionia và đánh bại không thương tiếc sự chống trả của dân bản xứ. Người Ionia đầu hàng, và để dẫn quân Freljord đi vào cánh rừng thiêng Omikayalan, Trái Tim Của Thế Giới. Phần đông thủ hạ của Ivern nghĩ đây là món quà cho những kẻ chinh phục, dấu hiệu của lòng trung thành. Nhưng chính tại đó, trong khu vườn xanh tươi lạ thường ấy, họ đối mặt với sự kháng cự mãnh liệt nhất.
Một kẻ địch thần bí trỗi dậy. Những sinh vật kỳ quái nửa người nửa thú săn đuổi đoàn quân ngày một ít dần, truy cùng diệt tận đám xâm lược. Không nao núng, Ivern dẫn dắt chỗ tàn binh ít ỏi tìm được thứ thiêng liêng nhất với người Ionia: Liễu Thần, một cái cây khổng lồ phủ đầy lá tỏa sáng màu lục ánh vàng. Trong lúc đám tay chân bị tàn sát trong đợt công kích cuối cùng, Ivern đứng sững bên cây thần. Khao khát đập tan ý chí quân thù, ông nắm chắc cây rìu chiến và bổ vào cái cây với sức mạnh của mười người. Ông không thấy tác động gì. Ông không cảm thấy gì cả. Chỉ có ánh sáng chói mắt khi ông đốn hạ cây Liễu Thần và dập tắt mọi sức sống trong nó.
Chuyện xảy ra tiếp theo còn lạ lùng hơn – tay ông hòa làm một với cây rìu chiến và lớp gỗ của Liễu Thần. Tứ chi ông kéo dài ra, đầy mấu và xù xì thô ráp. Ông bất lực đứng đó khi phần còn lại của cơ thể biến đổi dần. Trong thoáng chốc, ông đã cao đến mười thước, ngó xuống chiến trường nơi những đồng đội đã bị sát hại. Ông không thấy tim mình đập, nhưng ông đã thức tỉnh và giác ngộ.
Ông nghe một giọng nói sâu bên trong. “Quan sát,” nó nói.
Sau vài giây, những thi thể tan biến khi từng đoàn nấm sặc sỡ mọc lên. Thịt thành nguồn thức ăn cho chim chóc và thú rừng. Xương mục thành đất đai màu mỡ. Hạt trái cây những kẻ chinh phục ăn đâm chồi tươi tốt. Những ngọn đồi nhấp nhô như lá phổi dần được dưỡng khí tràn đầy. Lá và cánh hoa rung rinh như những trái tim đủ màu sắc. Từ quang cảnh chết chóc xung quanh ông, sự sống bùng nổ theo những cách khó ai tin nổi.
Ivern chưa bao giờ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp nhường ấy. Sự sống muôn hình vạn trạng quấn quít lấy nhau như một nút thắt không mong được tháo gỡ. Ông nhớ lại những sai lầm quá khứ, những hành động tàn bạo với kẻ khác, và thấy cảm giác buồn phiền ngập tràn.
Ông than khóc, những giọt lệ như sương mai trút xuống lớp vỏ cây và lá xanh giờ đã bao phủ khắp cơ thể. Ta biến thành Liễu Thần rồi sao? ông tự hỏi.
Rồi giọng nói bên trong Ivern nói cho một điều mới mẻ. “Lắng nghe,” nó nói. Ông làm theo.
Mới đầu, ông chẳng nghe được gì. Và rồi: tiếng rên rỉ của vô số động vật, tiếng than van của sông suối, tiếng kêu khóc của cây cối và tiếng nhỏ lệ của rêu mốc. Chúng cất lên khúc ai ca cho cây Liễu Thần. Cảm giác hối hận quét qua người Ivern, ông khóc lớn xin tha thứ. Một chú sóc tí hon rúc dưới chân ông. Ông thấy các sinh vật xung quanh nhìn mình chằm chằm. Thực vật vươn rễ chạm tới ông. Cả thiên nhiên hướng vào ông, và hơi ấm thứ tha truyền tới.

Cuối cùng, khi Ivern dời bước, hơn một thế kỷ đã trôi qua và thế giới đã đổi mới. Cảnh bạo lực và tàn nhẫn trong con người cũ dội lại trong tim ông. Ông sẽ không bao giờ quay lại làm một kẻ gieo rắc sự hủy diệt như thế nữa. Ông thậm chí còn hỏi giọng nói bên trong mình, tại sao lại là ông? Tại sao ông là được khoan dung?
Giọng nói cất lên lần thứ ba. “Sinh trưởng,” nó bảo.
Ông khó hiểu. Ông phải sinh trưởng hay giúp thế giới này sinh trưởng đây? Ông quyết định chắc là làm cả hai; sau tất cả, có ai không được hưởng lợi khi sinh trưởng thêm đâu? Ivern nhìn vào chính mình, làn da như vỏ cây, nấm phủ trên cánh tay, gia đình sóc trú ngụ trong nơi ông vốn dùng để bao kiếm. Cơ thể mới làm ông sững sờ. Ông thấy mình có thể cắm chân sâu xuống lòng đất và trò chuyện cùng rễ cây và côn trùng: thậm chí bùn đất cũng góp ý kiến của chúng!
Ivern thấy mình nên khởi đầu bằng cách làm quen với tất cả cư dân trên thế giới, và ông làm thế. Mất vài thế kỉ – chính xác là bao nhiêu thì Ivern cũng chẳng nói được, vì khi người ta vui vẻ thì thời gian trôi thật nhanh. Ông đi khắp thế giới và kết tình bằng hữu thân thiết với mọi sinh vật đủ loại kích thước. Ông quan sát những điểm yếu của chúng, thích thú tìm hiểu thói quen của chúng, và thỉnh thoảng cũng ra tay giúp đỡ. Ông rút ngắn quãng đường chú sâu nhỏ phải đi, đùa giỡn với những bụi gai đỏ tinh nghịch, và vui cười cùng các trưởng lão nấm. Mỗi nơi Ivern đến, rừng cây đâm chồi nảy lộc trong mùa xuân bất diệt và thú vật chung sống hòa hợp cùng nhau.
Nhiều dịp, ông giải cứu những sinh vật bị đám thú săn mồi vô tâm làm bị thương. Và trong một dịp như thế, ông bắt gặp một cô người đá tội nghiệp đang nằm bên bờ cái chết. Ông làm cho cô một trái tim mới từ sỏi. Theo truyền thống của mọi loài có nguồn gốc khoáng thạch, cô người đá trở thành người bạn trung thành của Ivern. Ông đặt tên cô là Daisy, theo tên loài hoa không hiểu sao mọc được trên người cô. Từ đó đến giờ, nếu Ivern bị đe dọa, cô sẽ ngay lập tức chạy đến bên ông.


Đôi khi, ông chạm trán con người, và hầu hết họ đều tương đối hiền hòa. Họ gọi ông là Bramblefoot hay Thụ Thần Thân Thiện và lưu truyền những câu chuyện về sự tử tế đến lạ lùng của ông. Nhưng, họ lấy mới nhiều hơn cho đi làm sao, họ mới tàn nhẫn và “người” làm sao. Ivern nản lòng, và ông không bầu bạn cùng họ nữa.
Rồi giọng nói trong ông cất lên lần thứ tư.
“Thể hiện,” nó nói.
Ivern rời khu rừng và du hành ra ngoài thế giới tràn ngập nhân loại. Quyết tâm ngày xưa trở lại, nhưng lần này không phải bị ác tâm hay tàn nhẫn thôi thúc. Một ngày, ông hy vọng sẽ thay thế được những gì ông đã tước đoạt. Nếu được gọi là Liễu Thần mới, ông cần phải vun trồng nhân tính, giúp họ quan sát, lắng nghe, và sinh trưởng. Vốn từng là con người, Ivern biết chuyện này sẽ không dễ dàng, nên ông mỉm cười và tự thách thức mình hoàn thành nhiệm vụ đó trước ngày mặt trời tan biến. Ông biết ông có đủ thời gian…

MÓN QUÀ ĐỘC DƯỢC

Với đa số người, một trăm năm là quãng thời gian thật dài.
Trong một thế kỷ, người ta có thể khám phá cả thế giới, gặp hàng nghìn người, hoặc hoàn thành vô số tác phẩm nghệ thuật. Ai cũng dễ dàng cho rằng đứng một chỗ suốt trăm năm quả là lãng phí khủng khiếp. Nhưng chính trong lúc đó, Ivern Bramblefoot lại đạt được nhiều thứ hơn bất kỳ ai.


Chẳng hạn, ông đã hòa giải một cuộc tranh cãi lâu đời giữa hội địa y và tảng đá cộng sinh cùng chúng, giúp từng thế hệ sóc tìm lại hạt dẻ bị bỏ quên, dỗ dành một nàng sói đơn độc trở về với bầy, dù họ từng gọi tiếng tru của cô là “inh tai.”
Ngón chân Ivern đâm sâu xuống lớp đất mềm, luồn lách giữa những thân củ dày đặc và lũ giun đất thờ ơ để cuốn lấy bộ rễ các cây cổ thụ, và khu rừng quanh ông nở rộ. Tất nhiên còn có nhiều nữa, nhưng những ví dụ trên là quá đủ để minh chứng cho một thế kỷ làm việc chăm chỉ rồi.
Mọi chuyện vẫn thuận buồm xuôi gió đến khi đám nguyệt quế bắt đầu thì thầm về những công việc hắc ám ngoài bìa rừng.
Thợ săn! họ hét lên qua bộ rễ, cảnh báo cả nửa cánh rừng.
Ivern biết nguyệt quế là loài dễ lo lắng, họ rung lá lên hoảng loạn chỉ vì một con sên bò qua, và sau cùng, săn bắt cũng không quá tệ, vì chẳng nên lãng phí hay bỏ qua thứ gì trong vòng đời cả. Nhưng đám nguyệt quế làm bầy chim cổ đỏ nghĩ ngợi, rồi đến lượt chúng kể cho đàn bướm. Nếu đàn bướm biết chuyện, thì cả khu rừng cũng biết.
Ivern đứng dậy, vỗ về đàn kiến có tổ vừa bị ông làm xê dịch, rồi vừa đi vừa rũ lớp vỏ cây bong tróc. Càng tiến bước xuyên qua khu rừng, tiếng báo động càng ồn ào hơn.
Ba tên, lũ sóc liến thoắng.
Đôi mắt như hai vầng trăng máu, đám cua kỳ cục lắp bắp từ nơi ẩn náu.
Bọn chim cắt thề rằng những thợ săn này đang lùng kiếm trứng của chúng. Hoa cúc ngà lo sợ cho những cánh hoa mỏng manh – và khiến cho Daisy, người rất yêu mến những bông hoa của mình, lo lắng. Ivern trấn tĩnh từng người, và giục họ đi trốn đến khi rắc rối qua đi. Ông vờ không nhận ra Daisy đang theo sau, vì cô nghĩ mình đi lại rất khẽ khàng.
Ông thấy một con shagyak tám sừng nằm chết trên thảm cỏ. Ba mũi tên cắm sâu vào cổ. Một giọt lệ trào ra khỏi đôi mắt Ivern, và chú sóc ông đặt tên là Mikkus bò lên ngực Thụ Thần Thân Thiện và lau nó khỏi gò má ông an ủi.
“Thợ săn lấy thịt làm thức ăn,” Ivern nói lớn. “Thợ săn chế tác xương làm đồ chơi và công cụ. Thợ săn lấy lông làm quần áo và thuộc da làm giày.”
Thi thể nằm đó đã mất đi tám cái sừng lấp lánh ánh ngọc trai. Ivern chạm xuống đất, và một vòng cúc dại nở rộ quanh con shagyak đã qua đời. Ông thấy một con rắn lục vảy đá trườn đi. Rắn lục vảy đá thông minh trước tuổi nhiều.
“Aaaaan toàn chưa?” con rắn rít hỏi.
Ivern biết lũ rắn thường xấu hổ vì nói lắp và từng tránh dùng những âm khó đọc. Ông đã thách họ sử dụng những từ họ sợ nhất, nhưng họ nằm lòng bài học đó và giờ chỉ nói những từ khó phát âm.
Loài rắn thường đạt được những thành tựu quá mức tưởng tượng.
“An toàn rồi, cậu bé.” Sinh vật tội nghiệp này hẳn đã chứng kiến tất cả. “Cuộn mình ở đây và trông chừng con shagyak cho ta nhé,” Ivern bảo nhóc rắn lục. “Ta sẽ trở lại sau khi làm rõ chuyện này.”
Sừng shagyak kêu lách cách không ngừng mỗi bước Risbell đi, đến nỗi cô phải dừng lại buộc túm chúng vào để tiếng ồn không dọa những con mồi sắp tới chạy mất. Trên thượng nguồn, những cái sừng này đáng giá cả gia tài. Dân thành thị trả giá cao cho những phương thuốc kỳ quặc lắm.
Niko, cô thợ săn hàm vuông chột mắt, phát hiện ra một loạt dấu móng guốc shagyak nữa. Cô quay lại gọi Eddo, gã thị dân giàu có với cây cung xương cá voi. Nụ cười đầy răng và đôi mắt hiểm độc của Eddo khiến Risbell, người trẻ tuổi nhất trong đoàn, rùng mình.
Phía trước, trên trảng cỏ, một con shagyak nữa đang nhấm nháp loại thức ăn yêu thích của nó. Ba thợ săn chầm chậm tiến lại, lặng thinh, không làm xào xạc dẫu chỉ một cái lá.
Đồng loạt, cả ba giương cung lên và ngắm kỹ. Đầu con shagyak vẫn cúi thấp, từ từ tận hưởng bữa tối, để lộ ra mấu thịt trên cổ. Khi bị xuyên qua, cái bướu đó sẽ giữ cho máu chảy trong khi các thợ săn cắt sừng con vật. Giữ cho con shagyak còn sống khi thu hoạch sừng là rất quan trọng để tăng hiệu lực của nó, Eddo đã nói vậy.
Mồ hôi nhỏ giọt xuống cổ cô khi chờ đợi con shagyak ngẩng đầu lên. Vừa đúng lúc ấy, lớp cỏ trên trảng chợt mọc cao bất thường, từ xâm xấp mắt cả đến quá đầu người trong nháy mắt. Ngọn cỏ vươn về hướng mặt trời, hoa nở rộ hàng hàng lớp lớp. Bức tường thực vật hoàn toàn che phủ con shagyak.
Eddo buông rơi cây cung. Con mắt lành lặn của Niko nhìn chòng chọc như muốn lồi ra. Mũi tên của Risbell bất cẩn bay vụt vào không trung. Cô không ra lệnh cho ngón tay buông dây. Cô hoảng sợ tựa lưng vào cái cây gần nhất.
“Tôi đã bảo khu rừng này bị nguyền rủa mà,” Risbell lẩm bẩm. “Chúng ta phải đi ngay.”
“Tôi từng đối đầu với yêu thuật trước đây rồi,” Niko nói. “Cứ làm theo lối cũ thôi.”
Cô cho tên vào bao và rút ra con dao găm dài nơi thắt lưng.
Eddo làm theo. Cả hai bảo Risbell ở lại trông coi đám sừng rồi lẳng lặng biến mất sau bức tường cỏ. Cô nín thở chờ đợi, nhưng không thể nghe nổi tiếng chân của họ. Một ngày, cô hy vọng mình có được sự im lặng chết chóc như các bạn đồng hành. Tuy nhiên, cô vẫn không thể rũ bỏ cảm giác rằng bức tường trước mặt chính là một lời cảnh báo. Bà cô từng kể chuyện về những sinh vật ma thuật kỳ quái lang thang trên thế giới này, và giờ những câu chuyện ấy lại gợi về. Chuyện cho trẻ con thôi mà, cô tự nhắc mình.
Một âm thanh lạ lùng vọng qua trảng cỏ. Không phải tiếng kêu của shagyak, mà là tiếng đá nên lên mặt đất thình thịch. Dù cái gì gây ra âm thanh đó, nó cũng đủ để khiến Eddo và Niko bỏ chạy trối chết khỏi bụi cỏ. Da họ tái nhợt, đôi mắt mở lớn. Rồi có thấy thứ đã khiến hai người bạn đường tháo thân.
Một bông hoa cúc ngà nhảy múa phía trên ngọn cỏ. Cảnh tượng thật khó hiểu.
Rồi Risbell nhận ra nó đang đến gần hơn. Cỏ rẽ ra, để lộ một người khổng lồ đá phủ đầy rêu. Một thể sống bằng hoa cương, cực kỳ mạnh mẽ và đi theo nhịp điệu. Risbell đang choáng váng chưa biết chuyện gì xảy ra thì một giọng nói điềm tĩnh gọi tên sinh vật đó.
“Daisy! Cẩn thận chứ. Và... nhẹ nhàng thôi!”
Risbell túm lấy túi ngà, chạy theo Niko và Eddo, cố gắng nhớ lại con đường dẫn về nơi họ cắm trại. Sau mỗi thân cây, một bức tường cỏ mới lại mọc lên. Có gì đó rình rập bên trong đám cỏ, giẫm đạp lên lớp lá cây, và cười khúc khích khi Risbell quay vòng vòng tìm lối ra. Cô đơn độc giữa khu rừng là, dưới mỗi cái cây, cỏ lại trỗi dậy gần như tức thời.
Risbell nhận ra mình đã bị lùa đi y như cách bà cô dùng để chăn cừu. Biết rõ mình đang dấn thân vào một cái bẫy, Risbell nhún vai và đi theo đám cỏ.
Ivern quan sát cô thợ săn trẻ tuổi bước ra khỏi mê cung cỏ và lại gần thi thể con shagyak. Sinh vật tội nghiệp kia trông hoảng sợ lắm. Cô ta rõ ràng chưa từng thấy ai hay cái gì giống ông trước đây. Ông cố tỏ ra nhã nhặn, nhưng con người có xu hướng phản ứng quá cá nhân.


“Vui lòng đừng hoảng sợ. Trừ khi đó là bản tính của cô. Trong trường hợp đó, cứ hoảng sợ đi. Tôi sẽ đợi. Không phiền gì đâu.”
Ivern không có ý làm ai hoảng sợ cả. Nhưng làm sao giải thích cho họ hiểu được chứ.
“Làm đi,” Risbell nói, giọng cô run rẩy. “Tôi đã xâm phạm, tôi biết. Tôi đặt mình dưới lòng khoan dung của ngài. Hãy làm nhanh đi.”
“Nhanh?” Ivern nhún vai. “Chắc chắn rồi. Tôi không thấy cô có chỗ nào tốt hơn để đi cả. Tốt thôi.”
Cô gái nhắm mắt lại và ngẩng cao đầu, để lộ cổ. Cô lần tay xuống bao kiếm nơi thắt lưng và nắm chặt thanh đao. Nếu hắn đến, sẽ có bất ngờ đấy.
“Nhưng tôi chỉ muốn biết tại sao,” Ivern vui vẻ nói. Ông chỉ những ngón tay như cành cây vào xác con shagyak. Tay ông vươn dài hơn, chạm đến lưng con thú và nhẹ nhàng vuốt ve bộ lông dính máu.
Risbell rút dao ra và thấy đau nhói nơi mắt cá. Cảm giác lạnh lẽo lan lên chân cô. Khi nhìn xuống, cô thấy thủ phạm: con rắn lục vảy đá, loài độc nhất trên toàn Aulderwood.
Phần vì tức giận, phần vì bản năng, cô bổ xuống con rắn.
“Không!” Ivern hét lớn.
Rễ cây mọc lên từ đất và túm lấy tay cô, ngăn lại đòn đánh. Chúng quấn quanh cổ tay, mắt cá và đầu gối cô. Cô buông rơi con dao trong lúc vùng vẫy thoát ra.
“Tôi sắp chết!” cô hét. Chất độc lạnh lẽo đã lan qua đầu gối.
Con rắn trườn đến dưới chân Ivern và leo lên ngươi ông đến khi biến mất dưới nách. Nó hiện ra từ phía sau đầu ông, cuộn mình quanh một nhánh cây và thè cái lưỡi chẻ ra liếm tai Ivern.
“Xxxxxin lỗi,” con rắn rít lên. “Gggggiật mình.”
“Làm ơn,” Risbell nói. “Giúp tôi.”
Ivern nghĩ mất một giây.
“À vâng!” Đôi mắt ông ta sáng lên. “Có một thứ yêu mến shagyak. Đặc biệt là những con đã chết.
“Và vui lòng tha lỗi cho Syrus; nó vừa mới sinh và không biết cách kiểm soát nọc độc. Tôi e nó đã cho cô nguyên liều rồi. Nó nhờ tôi bảo cô nó rất xin lỗi. Cô làm nó giật mình và nó hành động thuần túy theo bản năng thôi,” Ivern nói. “Giờ, quan sát nhé.”
Người cây quỳ xuống trước xác con shagyak, nhắm mắt lại, và ngân nga một khúc ca sâu lắng. Đôi tay ông đặt trên đất, ngón tay xòe rộng. Tia sáng xanh đổ từ trên đầu xuống cánh tay, rồi xuống mặt đất. Nấm mọc lên từ thi thể, mới đầu nhỏ, xong lớn dần trong lúc xác con shagyak phân hủy. Rất nhanh, chỉ còn lông, xương và một quân đoàn nấm tím.
“À, nấm chữa chích,” Ivern thở phào. Ông nhẹ nhàng nhổ một cây. “Luôn luôn đúng lúc.”
Dây leo rút khỏi người Risbell. Cô đổ xuống một đống. Đôi tay ngay lập tức ôm lấy trái tim. Nọc rắn lục đã lan đến ngực.
“Ăn cái này đi,” Ivern nói, đưa cây nấm tím cho cô gái đang hấp hối. “Nó không ngon lắm, nhưng cũng không đến nỗi quá dở đâu.”
Risbell không hiểu lão người cây kỳ lạ này định làm gì, nhưng lúc này cô đâu có nhiều lựa chọn. Giọng nói vọng lại từ quá khứ. Bà của cô. Tin vào thiên nhiên đi; Thụ Thần Thân Thiện không bao giờ dẫn con đi sai đường đâu.
Cô chộp lấy cây nấm từ tay Ivern. Nó có vị như trà đắng và phù sa; bữa ăn cuối cùng đáng thất vọng. Rồi cái lạnh như băng quanh tim cô tan ra và rút dần. Trong vài phút, chân cô lại cử động được.
Trong lúc cô hồi phục, Ivern làm một bài thuốc bằng lá, nhựa cây, và nước từ suối nguồn ông tìm ra bằng ngón chân. Ông đổ nó vào cái tổ chim cắt thả xuống tay.
“Là ông đúng không? Thụ Thần Thân Thiện.”
Ivern nhún vai như thể không biết. “Cô biết chúng ta làm gì ở đây được không?” ông nói, hướng sự chú ý sang đống xương shagyak. “Rêu luôn thích những chỗ thế này.”
Ngay khi ông nói thế, một tấm thảm rêu dày phủ lên đống xương. Cùng với nấm, chúng khiến cảnh tượng tang thương trước đó trở nên tươi đẹp.
“Sheldon sẽ thích những gì diễn ra với bộ xương của nó. Lửng sẽ dùng xương sườn của nó làm chỗ trú bão mùa thu. Không gì bị lãng phí cả,” Ivern nói, hướng sự chú ý sang Risbell. “Nghe có vẻ vô lý, nhưng lại hợp lý đến hoàn hảo. Nếu nó không chết, thì cô sẽ không sống.”
“Chúng tôi chỉ muốn sừng,” Risbell nói. Cô cúi gằm mặt xuống vì xấu hổ. “Người giàu muốn có chúng. Sẵn sàng trả hậu hĩ.”
“Ta vẫn nhớ tiền. Nó hiếm khi là một động lực tốt.”
“Tôi biết chúng tôi không nên làm điều đó. Bà tôi từng bảo tôi rằng nếu phải xuống tay, con phải tận dụng tất cả để vinh danh con vật đó.”
“Tôi mong được gặp bà cô lắm,” Ivern nói.
“Bà đã về với đất rồi.”
“Và đất vinh danh bà.”
“Tôi rất tiếc,” Risbell nói sau một thoáng im lặng.
“Mọi sự sống đều đáng quý.” Sự ân cần ấm áp và khoan dung trong giọng nói của Ivern khiến Risbell bật khóc. Ivern vỗ nhẹ lên đầu cô. “Tôi có thể đã không tự mình xử lý tốt mọi chuyện. Tôi có rất nhiều điều để nhớ về con người, và có rất nhiều điều tôi quên mình đã từng học được.”
Ivern giúp Risbell đứng dậy.
“Tôi phải đi đây. Tôi đã hứa với nòng nọc Hồ Phương Nam rằng tôi sẽ giám sát cuộc bầu chọn vua lá súng. Một cuộc đua gay cấn đấy.”
Một lát sau, Risbell rời khỏi rặng cây gần sông. Sau khi hớp vài ngụm nước, cô đào một cái hố và nhẹ nhàng đặt đống sừng shagyak vào trong. Cô bốc một nắm đất và ngân nga những lời nguyện cầu danh dự mà bà cô đã dạy. Cô lặp lại nghi lễ đến khi đám sừng được chôn lấp. Rồi cô cúi đầu tỏ lòng tôn kính và rời đi.
Từ sâu trong rừng Aulderwood, Ivern mỉm cười trước cử chỉ ấy. Đàn shagyak sẽ tự hào lắm đây.

~THE END ~




Saturday, December 17, 2016

Tahm Kench, Quái Vật Phàm Ăn


Tahm Kench một con thủy quái du hành ngang dọc Runeterra qua đường sông nước, khỏa lấp cơn phàm ăn vô độ của mình bằng nỗi đau khổ của những kẻ cả tin bằng những câu chuyện của nó. Quái vật sành ăn mê hoặc và thưởng thức từng khoảnh khắc đau khổ tột cùng của các nạn nhân. Một giao kèo với hắn sẽ đưa bạn đến bất cứ nơi nào bạn muốn, nhưng hành trình của bạn sẽ gần như chắc chắn chìm trong tuyệt vọng.


Gã con bạc điển trai chạy trốn vào Bilgewater, nơi còn được gọi với cái tên Thủy Triều Rực Lửa, một thiên đường cho những kẻ buôn lậu, cướp bóc, và phường vô đạo đức; nơi những gia tài sinh ra và cũng là nơi tham vọng bị đập tan trong nháy mắt. Với những kẻ đang trốn chạy công lý, nợ nần, hay xét xử; nơi đây là một khởi đầu mới: bởi vì không ai trên những con phố quỷ dị của Bilgewater quan tâm đến quá khứ một con người. Một thành phố hòa trộn tất cả những nền văn hóa, dân tộc, và tín ngưỡng; luôn luôn bừng sức sống vào bất kỳ thời điểm nào...


Nhưng hắn đã nợ rất nhiều máu và vàng, chả còn cách nào để trả cho các chủ nợ vì đến cái mạng nhỏ nhoi của hắn cũng không đủ là bao.Tuyệt vọng, gã định kết thúc đời mình bằng cách trôi mình theo dòng nước.Rồi hắn nghe thấy một âm thanh quái dị, nghe kĩ thì mới biết đó là một bài hát gọi mang vận may trở lại vơi mình.

Tiếng hát phát ra một sinh vật to lớn, đó là một con thủy quái nhưng trông nó lại khá gần gũi với màu da xanh lá nhạt nhạt, đôi mắt to màu vàng với bộ trang phục là áo màu đỏ to lớn của dân bản địa, thêm một cái áo ghi lê da cũ kĩ cổ bành dài đến tận đuôi với một cái mũ khá là quí tộc... Tất cả trông thật dị hợp nhưng cũng khá lịch sự, ít nhất là với nó, một cái quái vật. Vẻ ngoài đấy thêm cho nó một chút nhân tính, giảm đi sự nghi vực của những con mồi tiềm năng. Nó bịa ra những câu chuyện để lấy niềm tin của nạn nhân, người sắp bị xơi tái. Những lời dụ dỗ mật ngọt xuất phát từ cái miệng lớn ấy, thứ đó biểu hiện cho sự tham lam vô độ và những thủ đoạn bất chính.Tahm Kench không chỉ có cái miệng, mà nó chính là cái miêng.




 "Thứ lỗi cho ta, bài hát kì dị này chỉ để ngươi chú ý mà thôi", Con thủy quái nói.

Nó tiếp ''Ta biết ngươi đang gặp rắt rối và ta có cách giải thoát cho ngươi."

Gã con bạc thắc mắc :"Ông có thể giúp tôi qua mớ rối rắm này ư ?"

"Chàng trai à, thế giới là một dòng sông và ta là vua của nó, không có nơi nào ta chưa đến và cũng chẳng có nơi nào mà ta không thể trở lại""..Cái giá phải trả.... rất nhỏ. Ngươi thấy đấy, những bàn tiệc ngon lành nhất,chúng chẳng bao giờ có chỗ cho ta.Vậy nên ta cần ngươi, giống như người, dẫn ta vào thưởng thức vậy"



Gã con bạc chỉ thèm khát vào bộ bài và xúc xắc."Vậy giao kèo nhé .?Quả là một cái giá quá hời, nếu như ông đảm bảo chắc chắn"

Chàng trai trẻ cuối cùng cũng mở lời: "Vậy thì giao kèo thôi, tôi sẽ nhận"

Không đợi hắn nói thêm lời nào nữa, lập tức con quái vật dùng cái lưỡi dài khổng lồ của mình nhấc bổng hắn lên, cuộn vào mồm, và từ từ biến mất vào làn nước.


 Gã được đưa đến một vùng đất xa xôi và hắn ở đấy, một mảnh đất trù phú tốt lành đầy cơ hội, nơi mà hắn bắt đầu lại từ đầu, một cuộc sống mới.


 Năm tháng qua đi. Gã tìm được tình yêu của đời mình, một nàng công chúa xinh đẹp, cặp tình nhân trẻ ấy làm cho nhiều cặp đôi phải ganh tị với hạnh phúc của họ, một cuộc tình đẹp  .Và rồi cũng đến ngày cưới. Mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ngày trọng đại ấy. Đám cưới của cô công chúa và người chông tương lai của cô, một bữa tiệc lớn. Đây cũng là lúc con quái thú đói bụng xuất hiện.


 Cả đám cưới rơi vào hỗn loạn, họ sợ hãi, gào thét, quân lính đánh trả trong vô vọng. Không gì có thể ngăn cản được nó, dù chỉ một chút. Và gã con bạc đã cố đuổi nó đi....Nó ăn mọi thứ, từ các thức ăn trên bàn tiệc, các món quà, vàng bạc và đến cả tòa lâu đài.., không gì có thể khiến nó thỏa mãn đươc cơn đói này.

"Làm ơn, Đừng phải là lúc này!" Cô dâu bậc khóc.  

Con quái thú đáp lại với cô, nó thì thầm: "Cơn đói này phiền phức thật,nhưng đây là lần cuối, ta hứa, nên hãy tha thứ cho ta." 



Lời nói dói của nó du dương, thành khẩn đã mê hoặc cô gái nhẹ dạ. Để rồi nàng chẳng thể nhận ra bộ hàm ác quỷ đã há rộng. Cô ta gào thét, con quỷ đã nhai xương và nghiền nát tứ chi. Cuối cùng, bữa tiệc thì cũng tàn và bữa ăn đó khiến đó có khiến nó thỏa mãn ?
Nó nói với cái giọng mỉa mai: "Cứ khóc nếu ngươi muốn,chàng trai. Bởi ngươi đã có cơ hội bỏ đi, nhưng ngươi lại quá ngu, một gã ngốc đã dẫn ta vào để ăn......."


- THE END -



Monday, October 24, 2016

Tổng hợp 1 số các biểu tượng của các vị tướng

Mấy pic này mình sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau,nên nếu ai có thì cho mình xin để bổ xung vào nhá.Và cũng có 1 số ảnh trùng nhưng khác màu nên mình cũng không thêm nên thông cảm.



















































Sunday, October 23, 2016

Cuộc đi săn của Kindred - Cừu và Sói

"Hãy nói lại cho ta xem, Cừu bé nhỏ, ta được lấy những gì?"
"Tất cả, Sói thân mến."
Độc lập nhưng không bao giờ tách rời, Kindred đại diện cho hai phần của cái chết. Cây cung của Cừu nhanh chóng đưa những người chấp nhận số phận của họ ra khỏi thế giới trần tục. Sói săn đuổi những kẻ chạy trốn khỏi định mệnh, mang đến cho chúng kết thúc dữ dội trong bộ hàm khủng khiếp của nó. Dù những lời giải thích về bản chất của Kindred biến đổi trên khắp Runeterra, mọi phàm nhân đều phải lựa chọn cái chết cho mình.
Kindred là vòng tay vô hình của hư không, là cái nghiến răng giận dữ của bóng tối. Người chăn cừu và tên đồ tể, nhà thơ và kẻ hoang dã, chúng là một và cũng là cả hai. Khi đứng trên lằn ranh sinh tử, vang vọng hơn bất kỳ tiếng tù và nào, chính mạch đập dồn dập nơi cổ một người kêu gọi Kindred bước vào cuộc săn. Hãy đứng lên đón chào cây cung bạc của Cừu và những mũi tên của nó sẽ cho bạn một cái chết nhanh chóng. Nếu bạn từ chối, Sói sẽ dẫn bạn vào cuộc săn vui vẻ của nó, nơi mỗi lần rượt bắt đều dẫn đến một cái kết bạo tàn.
Kể từ khi con người biết đến cái chết, Kindred đã có mặt ở Valoran. Khi thời khắc cuối cùng đến, có lời đồn rằng một người Demacia chân chính sẽ biến thành Cừu và cầm lấy mũi tên, trong khi Sói đi săn giữa những con phố tối tăm của Noxus. Trong gió tuyết của Freljord, trước khi vào trận chiến, nhiều kẻ "hôn Sói," thề vinh danh cuộc săn của nó bằng máu kẻ thù. Sau mỗi ngày Hội Ma, cả thành phố Bilgewater tụ tập lại để ăn mừng cho những kẻ sống sót và vinh danh những người được Cừu và Sói ban tặng cái chết.
Phủ nhận Kindred chính là phủ nhận trật tự tự nhiên. Chỉ có vài kẻ khốn khổ từngtrốn tránh bộ đôi thợ săn này. Những kẻ đào thoát ngoan cố đó chẳng có chốn dung thân, mà chỉ có ác mộng. Kindred chờ đợi những kẻ đó bị giam trong hình hài xác sống trên Quần Đảo Bóng Đêm, vì chúng biết cuối cùng tất cả sẽ ngã xuống trước cây cung của Cừu và nanh vuốt của Sói.
Người ta biết đến sự hiện diện của Thợ Săn Vĩnh Hằng sớm nhất là qua bộ đôi mặt nạ cổ xưa, không biết được ai khắc lên bia mộ của những người đã bị quên lãng từ lâu. Nhưng đến tận ngày nay, Cừu và Sói vẫn gắn liền với nhau, và chúng luôn là Kindred.

Máu đổ từ trận chiến như một bữa tiệc bày ra trước mắt chúng. Sự sống mới ngon lành làm sao—có quá nhiều kẻ để giết, có quá nhiều tên để săn! Sói bước từng bước trên tuyết trong khi Cừu uyển chuyển nhảy múa từ lưỡi gươm này sang mũi giáo kia, cuộc tàn sát đẫm máu không hề vương chút nào lên tấm áo choàng mờ ảo của nó
"Ở đây có cả sự can đảm lẫn nỗi đau, Sói ạ. Nhiều người sẽ vui mừng đón nhận kết thúc của họ." Cừu giương cung lên và vạch ra một đường cong dứt khoát.
Người lính trút hơi thở cuối cùng khi tấm khiên bị một cây rìu bổ nát. Cắm trong tim anh ta là một mũi tên bạc, lờ mờ thứ ánh sáng siêu hình.
"Lòng can đảm khiến ta chán muốn chết," con sói đen to lớn càu nhau khi đi trên lớp tuyết. "Ta đang đói và rất muốn đi săn đây."
"Kiên nhẫn nào," Cừu thì thầm vào cái tai lông lá của nó. Lời vừa nói, đôi vai của Sói căng ra và phục người sát xuống đất.
"Ta ngửi thấy sự sợ hãi," nó nói, run lên vì kích động.
Phía bên kia bãi tuyết lầy lội, một tùy tùng—còn quá trẻ để chiến đấu, nhưng vẫn phải cầm kiếm trên tay—nhìn thấy thứ Kindred đã đánh dấu khắp thung lũng.
"Ta muốn thằng nhóc kia. Nó có thấy chúng ta không, Cừu?
"Có, nhưng nó phải lựa chọn. Để Sói ăn, hay chào đón ta."
Trận chiến xoay mũi nhọn của nó sang phía cậu tùy tùng. Cậu nhìn chằm chằm vào cơn thủy triều hỗn độn của dũng cảm và tuyệt vọng đang tràn đến. Đây sẽ là buổi bình minh cuối cùng cậu được nhìn thấy. Trong khoảng khắc đó, cậu nhóc đã lựa chọn. Cậu sẽ không tự nguyện ra đi. Cậu sẽ chạy đến hơi thở cuối cùng.
Sói táp vào không khí và dụi mặt xuống tuyết như một chú cún con.
"Phải, Sói thân mến." Giọng Cừu vang vọng như như một chuỗi chuông ngọc. "Bắt đầu cuộc săn đi."
Chỉ chờ có thế, Sói chạy băng qua chiến trường, đuổi theo cậu nhóc, tiếng tru như sấm sét vang khắp thung lũng. Thân thể xám xịt của nó lướt qua xác những kẻ mới chết và đống vũ khí gãy nát vô dụng của chúng.
Cậu tùy tùng quay lưng bỏ chạy vào rừng, lách qua những thân cây to lớn. Cậu tiếp tục chạy, không khí lạnh cóng ùa vào buồng phổi. Cậu quay đầu lại nhìn kẻ săn đuổi, nhưng chẳng thấy gì ngoài cây cối. Bóng đêm khép chặt vòng vây quanh người cậu và cậu chợt nhận ra không có lối thoát nào cả. Hình thù đen tối của Sói ở khắp nơi. Cuộc rượt đuổi đã đến hồi kết. Sói cắm phập hàm răng sắc nhọn của nó vào cổ cậu tùy tùng, xé nát từng mảnh của sự sống trong đó.
Sói thích thú trước tiếng hét của cậu nhóc và tiếng xương vỡ vụn. Cừu dạo bước đằng sau, bật cười trước trò giải trí này. Sói quay lại và hỏi bằng một giọng như tiếng gầm gừ, "Đây là âm nhạc, phải không Cừu?"
"Dành cho ngươi thôi," Cừu trả lời.
"Lại đi," Sói liếm chút nhựa sống cuối cùng của cậu nhóc còn vương trên mép. "Ta muốn rượt đuổi tiếp, Cừu bé nhỏ ạ."
"Luôn luôn có thêm con mồi mà," Cừu thì thầm. "Cho đến ngày chỉ còn Kindred tồn tại."
"Lúc ấy ngươi sẽ chạy trốn ta chứ?"
Cừu quay lại với trận chiến. "Ta sẽ không bao giờ chạy trốn ngươi, Sói thân mến."



http://cheaire.blogspot.com/2016/10/cau-chuyen-kindred-va-co-nang-magga.h

Friday, October 21, 2016

Câu chuyện Kindred và cô nàng Magga

                   
                                                 Đây đã là lần thứ 14 Magga phải đứng trước ngưỡng cửa địa ngục.
Một lần nữa, cô lại “cắn vào quả táo độc” dành cho mình. Và tương tự như 13 lần trước đó, sự thối rữa của quả táo chính là nguyên nhân dẫn Magga đến với cái chết. Cứ như thế, nữ diễn viên của chúng ta dần gục xuống trước sự chứng kiến của người xem, trong khi cố thét lên những lời sau cuối.
“Ôi, cuộc sống còn có có thể kỳ diệu đến đâu nữa? Giây phút này thực sự đã quá muộn màng rồi! Giờ ta chẳng thể nào có thể thức dậy và ngắm nhìn tấn huy hoàng mà cuộc sống đem lại.” – cô khóc than.
Một làn sương khói chợt ùa về phía Magga, và Kindred xuất hiện mờ ảo phía trước sân khấu. Như thường lệ, hắn vẫn được thủ vai bởi duy nhất một người. Chiếc mặt nạ hai mặt bọc kín lấy phần đầu của nam diễn viên. Anh từng bước lại gần Magga. Chiếc mặt nạ trắng tượng trưng cho Cừu chằm chằm nhìn về phía cô.
“Nào nào! Có phải ta vừa nghe thấy ai đó kêu gọi những mũi tên sắc nhọn của mình hay không nhỉ? Lại đây với ta nào cô bé! Hãy để hơi ấm của trái tim ngươi hòa vào sự băng giá của sự lãng quên.”
Giống với 13 lần trước, Magga ngay lập tức khước từ. Tiếng gào thét trong hoảng sợ của cô dường như lấn át mọi cung bậc cảm xúc khác. Đúng lúc đó, chiếc mặt nạ Cừu bỗng dưng xoay chuyển, để lộ ra chiếc mặt nạ còn lại – đại diện cho Sói.
“Ngươi cũng chẳng thể làm gì để chống lại số phận đâu.” – Sói gầm gừ.
“Tôi hiểu điều đó, nhưng tôi chỉ là một thiếu nữ còn quá trẻ để có thể chết. Xin các ngài hãy rủ lòng thương!”
Tất cả khán giả đều chết mê chết mệt trước cái kết mở của vở kịch mà đoàn diễn Orphellum Mechanicals đem lại. Có vẻ như chính những hiểm họa trong cuộc sống thường ngày mà họ phải đối diện như chiến tranh, chết chóc đã khiến cho những vở kịch đậm chất rùng rợn này trở nên thu hút hơn bao giờ hết.
Denji – người đảm nhiệm vai diễn Cừu và Sói, từ từ cúi người về phía Magga, vụng về kẹp chiếc răng nanh bằng gỗ của vào đúng vị trí. Trong khi đó, Magga để lộ phần cổ của mình ra cho bạn diễn. Ngay lúc con Sói cắm những chiếc răng của mình vào, cô nhanh chóng giật đạo cụ được khâu bên trong áo của mình. Những tẩm lụa đỏ như máu nhờ đó cứ tuôn ra xối xả trước sự chứng kiến của người xem. Vậy là họ đã có được thứ mà mình mong muốn.
Thuở trước, khi mà đoàn kịch còn phải dựa dẫm hầu hết vào công ty Needlebrook, họ chẳng có một ngôi sao nào cả. Thay vào đó, hình ảnh của họ hiện lên chỉ như một bầu trời đêm bị che kín bởi mây mù.
Needlebrook luôn mang đến một lượng khán giả trung thành, Illusian – người sở hữu công ty kiêm viết kịch, nói lại một lần nữa. Hắn loạng choạng bước đi, cầm trên tay chai rượu Parr được người những người dân địa phương gửi tặng.
Màn đêm buông xuống cũng là lúc mà Tria và Denji bắt đầu buông lời trách móc người viết kịch bản của mình. Họ cho rằng diễn biến như thế là quá đơn giản và dễ đoán trước. Bắt đầu bằng tấn bi kịch dành cho nàng thiếu nữ, rồi cái chết tìm đến cô, cuối cùng là cô khuất phục trước thần chết. Thế nhưng Illusian lại cho rằng sự phức tạp chỉ phá hỏng hình tượng của cái chết mà thôi.
Magga, người trẻ nhất trong đoàn kịch, cũng có cùng quan điểm với Tria và Denji. Nhưng cô chọn cho mình sự im lặng. Bởi chừng nào cô còn giữ được vai diễn, thì lúc đó chẳng có gì phải lo cả. Thật may mắn cho Magga khi gần đây, Mechanicals vừa mới mất đi một số diễn viên bởi tính cố chấp của Illusian trong việc kiểm soát nhân sự. Chính vì thế những người cũ luôn phải chịu những áp lực nặng nề khi có sự xuất hiện của những gương mặt mới. Và thế là đoàn kịch ký hợp đồng với Magga, miễn là cô chấp nhận vào vai người chết trong những vở kịch sau này. Cô rất cảm kích về điều đó.
Trong khi đó, Illusian có vẻ như vẫn còn hậm hực bởi những lời nói của Tria và Denji khi hắn bày tỏ quan điểm của mình về Parr, về đoàn kịch. Hắn trải chiếc giường gấp của mình ra bên cạnh những toa xe của cả đoàn. Sau đó hắn ném phần còn lại ra bãi cỏ phía xa.
“Những kẻ không hiểu luật chơi thì nên ngủ trong rừng – nơi chúng hy vọng có thể chấn chỉnh lại thái độ của mình” – Illusian phì nước bọt.
Phần còn lại của đoàn kịch thì tụ tập quanh đống lửa và họ bắt đầu kể cho nhau những câu chuyện mà mình biết. Trong khi đó Denji và Tria đã chìm sâu vào giấc ngủ tự khi nào. Nằm gọn gàng trong vòng tay nhau, bên tai họ vẫn còn văng vẳng tiếng thì thầm về những cái tên mà họ định dành cho đứa con sắp chào đời của mình. Họ dành phần lớn thời gian để nói cho nhau nghe về cái ngày, ngày mà đoàn kịch sẽ dừng chân lại tại thị trấn Jandelle, một nơi lý tưởng để họ nuôi dạy con cái mình.
Về phần Magga, cô tiến gần hơn với ngọn lửa khiến cho nó cứ bùng cháy và nổ lách tách trong không khí. Điều đó vô tình khiến cho không gian yên tĩnh nơi đây trở bỗng chốc trở nên ồn ào chỉ bởi những động tác di chuyển của cô.
Thế nhưng, giấc ngủ lại không đến một cách dễ dàng như vậy. Thay vào đó, Magga cứ trằn trọc suốt đêm. Cô không thể ngừng suy nghĩ về khuôn mặt của những khán giả phía dưới sân khấu khi họ chứng kiến cái chết của nữ nhân vật trong vở kịch. Một thiếu nữ xinh đẹp mắc kẹt với cái chết chỉ bởi chính sự ngây thơ, trong sáng của mình. Đó chính là những điều mà Illusian muốn hướng tới trong vở kịch, đám đông dường như rất phấn khích khi chứng kiến điều này.
Cuối cùng, Magga bỏ lại chiếc giường gấp và tiến thẳng vào khu rừng. Có lẽ là để phần nào đó nguôi ngoai những suy nghĩ trong tâm trí mình.

                                              
Trong bóng tối bao trùm, Magga băng qua những ngọn cỏ và những bãi đá. Mặc dù cô không tài nào đọc được những ghi chú khắc trên các phiến đá, nhưng những ngón tay cô vẫn đủ tỉnh táo đề cảm nhận được sự thân thuộc này, đó chính là chiếc mặt nạ đôi của Kindred. Nơi đây chính là vùng đất chết, 1 nghĩa trang cổ đã được xây dựng từ rất lâu rồi.
Bỗng nhiên có thứ gì đó khiến cho cô ớn lạnh phía sau gáy và buộc phải ngước lên nhìn. Cô không hề đơn độc tại nơi đây! Ngay lập tức Magga nhận ra sinh vật trước mặt mình, bởi lẽ đó chính là vai diễn mà cô đã rất cố gắng luyện tập hằng đêm. Nhưng Denji đáng thương chẳng bao dạy cho cô cách đối mặt với nỗi sợ cả. Phía trước cô bây giờ chính là Cừu và một nửa còn lại của nó – Sói.
“Ta nghe thấy tiếng một quả tim đang đập!” Sói nói, đôi mắt đen láy của nó bỗng dưng lóe lên trong bóng tối. “Liệu ta có thể lấy nó không?”
“Rất có thể,” – Cừu trả lời “Tôi có thể cảm nhận được nỗi sợ hãi đó. Nào, hãy cho chúng ta biết tên, hỡi sinh vật xinh đẹp kia!”
“Ta…Ta muốn biết tên các người trước” – vừa lắp bắp, Magga vừa lùi những bước chậm rãi về phía sau. Thế nhưng, mọi suy nghĩ về việc chạy trốn của cô bỗng dưng biến mất khi Magga phát hiện ra Sói đã nhanh chóng có mặt ở phía sau lưng từ lúc nào không biết.
“Bọn ta có rất nhiều tên” – Sói thì thầm vào tai cô.
“Ở miền Tây, ta là Ina còn đó là Ani” – Cừu tiếp lời “Miền Đông họ gọi ta là Farya còn ngài ấy là Wolyo. Nhưng cái tên Kindred thì mọi nơi đều biết tới. Ta luôn là Cừu trong khi ngài ấy là Sói, và ngược lại.”
Sói chồm lên và bắt đầu đánh hơi trong không khí.
“Cô ta đang chơi một trò chơi thật là nhàm chán” – Sói than thở “Hay là chúng ta hãy chơi một trò khác thú vị hơn đi. Đuổi bắt và cắn xé nhé.”
“Thưa ngài Sói, cô ấy sẽ không thể chơi cùng chúng ta được đâu.” – Cừu nói “Cô ấy đang hoảng sợ và dường như đã quên mất cả chính cái tên của mình rồi kìa. Nó lẩn trốn đâu đó dưới đôi môi kia, còn không dám chui ra nữa kia mà. Nhưng đừng lo, hỡi cô bé ạ, ta đã tìm ra tên của cô rồi. Chúng ta biết rõ cô như cô biết chúng ta vậy, Magga.”

                                     




“Xin…xin các ngài” – Magga lắp bắp “Đêm nay thật chẳng phù hợp để…”
Chiếc lưỡi đỏ hồng của Sói liếm quanh rìa mép, và có vẻ như nó sẽ không bỏ lỡ cơ hội này của mình.
“Màn đêm luôn luôn là thời điểm phù hợp cho những cuộc săn mồi.” – Sói vừa cười vừa nói.
“Cả ban ngày cũng vậy thôi.” – Cừu tiếp lời “Chỉ cần chút ánh sáng là đã có thể tạo ra một cú bắn hoàn hảo rồi.”
“Nhưng hôm nay ánh trăng lại đi đâu mất rồi!” – Magga khóc và bắt đầu vận dụng những thủ thuật diễn xuất mà Illusian đã từng dạy cho cô “Những đám mây đen kịt kia đã che đi sự xuất hiện của mặt trăng rồi. Cả tôi và các ngài đều nào có thấy nó đâu. Thiếu đi ánh trăng, thì điều cuối cùng tôi thấy sẽ là gì cơ chứ?”
“Chúng ta vẫn thấy đó thôi,” – Cừu trả lời, và nhè nhẹ nắm chặt cây cung huyền thoại của mình “Nó vẫn luôn hiện diện nơi đây.”
“Nhưng bầu trời hôm nay thậm chí còn chẳng có sao nữa!” – Magga thử lại 1 lần nữa trong tuyệt vọng, nhưng lần này nhỏ và dè dặt hơn “Vắng đi sự lấp lánh của những vì tinh tú kia phải chăng là sự thiếu thốn vô bờ đối với một người được diện kiến Cừu và ngài Sói đây sao?”
“Cái-thứ-Magga-gì-đó này lại bắt đầu chơi một trò chơi mới rồi,” – Sói gầm gừ “Và nó có tên là Trò Kéo Dài Thời Gian.”
Sói ngừng di chuyển và nghiêng cái đầu của mình. Hắn sải bước tới chỗ của Magga và nói: “Hay là chúng ta chuyển sang chơi trò đuổi bắt Cái-thứ-Magga-gì-đó và xé xác nó ra? có được không?” Sói vừa nói vừa nghiến những chiếc răng nanh nhọn hoắt của mình vào nhau.
“Vậy thử hỏi cô ấy xem.” – Cừu trả lời “Magga! Ngươi sẽ chọn bị đuổi bắt bởi Sói hay chạy trốn khỏi những mũi tên của ta?”
Lúc này Magga bắt đầu run rẩy. Cô đưa ánh mắt của mình thật nhanh để thu liễm vạn vật xung quanh. Thành thực mà nói thì nơi đây cũng chẳng tệ chút nào để trở thành nơi chấm dứt cuộc đời. Cỏ bạt ngàn, cây xanh tốt, hơn thế nữa còn sở hữu 1 lối vào cổ xưa và 1 bầu không gian tĩnh mịch.
“Tôi sẽ chọn những mũi tên của Cừu.” – Cô trả lời trong khi đang đưa mắt nhìn lên những cành cây “Tôi có thể tượng tưởng ra mình đang leo lên những ngọn cây cao nhất, giống như ngày tôi còn là một đứa trẻ. Nhưng chỉ duy có lần này, tôi sẽ không có cơ hội để dừng lại. Đó có phải là những gì các người mong muốn?”
“Không” – Cừu đáp “Mặc dù suy nghĩ ấy cũng thú vị đó. Nhưng không việc gì phải sợ cả, hỡi cô thiếu nữ kia. Chúng ta chỉ chơi đùa một chút thôi mà. Đêm nay chính cô đã đến với chúng ta, chứ chúng ta nào có đến đây vì cô.”
“Vậy là ta không được đuổi bắt cái-thứ-magga-gì-đó này rồi”- Sói thất vọng thì thào “Nhưng vẫn có những thứ thú vị ở xung quanh đây. Chúng có vẻ phù hợp với việc đuổi bắt và cắn xé hơn. Nhanh chân lên nào, Cừu! Ta đói lắm rồi!”
“Lần này, có vẻ như chúng ta đã bị tài diễn xuất của cô thuyết phục rồi, và bọn ta sẽ còn xem nó cho đến ngày chúng ta gặp lại nhau.”
Sói bước qua Magga và biến mất vào trong khu rừng. Con quái vật bóng tối đã lẩn trốn vào trong màn đêm mịt mù, băng qua những mảnh rừng cỏ cao chót vót. Magga cố nhíu mày nhìn về phía trước. Cả Cừu cũng đã đi rồi.

Không bỏ lỡ cơ hội của mình, cô nhanh chóng tìm lối thoát trở về với an toàn.
Khi Magga tìm được lối về nơi đoàn kịch nghỉ lại, cô chợt nhận ra rằng mọi thứ giờ chỉ còn là đống hoang tàn. Cỗ xe lưu diễn mà cô coi là mái nhà thứ hai giờ đây chỉ lưu lại những mảnh vỡ nát. Dụng cụ diễn xuất cũng không ngoại lệ, chúng nằm vạ vật, tả tơi xung quanh mảnh đất nơi mọi người nằm ngủ.
Cô nhận ra Denji giờ đây chỉ là cái xác không hồn. Anh đã chết trong nỗ lực cứu lấy Tria nhưng bất thành. Nhìn vào những gì còn lưu lại tại nơi đây, có thể khẳng định rằng cái chết của họ chóng vánh đến mức nào. Họ bị lôi, kéo thẳng vào nhau. Nhưng những ngón tay vẫn còn kịp đan vào nhau cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.
Magga nhận ra rằng Illusian đã cố gắng chống cự lại hai kẻ côn đồ trước khi bị chúng thiêu cháy cùng với chai rượu Parr trong tay.
Thứ duy nhất còn nguyên vẹn tại hiện trường chính là chiếc mặt nạ hai mặt Cừu và Sói mà Denji vẫn thường dùng. Magga nhặt nó lên và nắm chặt trong lòng bàn tay. Cô đặt chiếc mặt nạ phía Cừu ngay trước mắt mình và bỗng nhiên nghe thấy giọng nói của Sói từ đâu vọng đến.
“Đuổi bắt cái-thứ-Magga-gì đó.”
Cô thiếu nữ bỗng quay đầu chạy thật nhanh khỏi đống hoang tàn của Needlebrook, và không hề ngoảnh lại dù chỉ 1 lần.
                                                  Sân khấu Hoàng Kim luôn là nơi thu hút mọi ánh nhìn của vô vàn người xem. Họ chờ đợi sự phấn khích đến từ những màn diễn kinh điển ẩn đằng sau tấm màn. Ngay cả đức vua và hoàng hậu cùng những cận thần cũng có mặt để chờ đợi khoảnh khắc nghệ thuật bừng sáng. Tất cả mọi người đều mong đợi khoảnh khắc tấm màn sân khấu được kéo lên, để lộ ra sự xuất hiện của những nhân vật mà mình hằng mong chờ.
Magga ngồi một mình trong sự tĩnh mịch bên trong phòng thay đồ. Khi soi mình trước gương, cô nhận ra rằng đám đông bên ngoài đã dần trở nên yên lặng. Giờ đây sự khát khao bùng cháy của tuổi trẻ đã biến mất trong đôi mắt cô, để lại chỉ còn là những vết thương tinh thần hằn sâu trên mái tóc.
“Thưa cô” –  người trợ lý sân khấu lại gần và nói “Cô vẫn chưa hóa trang sao?”
“Chưa đâu cậu bé ạ” – Magga đáp “Ta sẽ không hóa trang cho đến phút cuối cùng.”
“Nhưng đã sắp đến lúc vở kịch diễn ra rồi.” – người trợ lý sân khấu trẻ tuổi nói, trên tay vẫn cầm hai mảnh ghép cuối cùng dành cho bộ hóa trang của Magma – chiếc mặt nạ Cừu và Sói, thứ đã cùng trở về với cô sau thảm kịch của Orphellum Mechanicals.
“Cầu cho màn trình diễn của cô sẽ diễn ra tốt đẹp!” – người trợ lý nói.
Magga lặng thinh. Cô đeo chiếc mặt nạ lên trên gương mặt của mình để chuẩn bị bước ra sân khấu. Một cơn ớn lạnh quen thuộc chạy dọc xương sống. Và như thường lệ, cô luôn chào đón sự xuất hiện của nó.
Magga ngay lập tức mê hoặc người xem bằng cái cách cô bước ra ánh đèn giống như những bước chân nhu hòa của Cừu. Sau đó cô lại đưa người xem đến với cảm giác sợ hãi tột cùng bằng sự hoang dã của Sói. Chính cô, người đã từng trải nghiệm nỗi hoảng sợ khi đối mặt với cái chết cận kề, là người thích hợp nhất để đóng vai diễn này. Cứ như thế cô chiếm trọn mọi sự chú ý của người xem cho đến khi họ phải đứng dậy dành cho cô những tràng pháo tay bất tận.
Điều đó là sự thật. Hết thảy người xem đều ưa thích ngắm nhìn hoạt cảnh nơi cái chết diễn ra. Và họ yêu mến cái cách mà Magga truyền tải cái chết đó hơn bất cứ ai khác.
Thậm chí cả đức vua và hoàng hậu cũng phải đứng dậy, tán thưởng màn trình diễn của cô.
Nhưng, Magga nào đâu có cảm nhận được những tràng pháo tay ca tụng mình. Cô thậm chí còn chẳng có cảm giác đôi chân mình đang đứng trên sân khấu, cũng không hề hay biết đôi bàn tay của bạn diễn đã nắm chặt tay mình tự khi nào. Tất cả những gì đọng trong tâm trí cô là một cơn đau – như bị khoét sâu bởi một vật gì đó sắc nhọn ngay chính giữa ngực của mình vậy.
Khi Magga đưa cái nhìn xuống phía dưới khán đài, mọi khuôn mặt cô nhìn thấy đều không mang hình người. Đó đều là Cừu hoặc Sói!